NIỀM HY VỌNG KHÔNG BAO GIỜ LÀM THẤT VỌNG
Các
môn đệ khi xưa đã không ít lần bâng khuâng tự hỏi: Theo Đức Giêsu, các ông được
gì, vì đường dài và gian nan, trong khi tương lai không có dấu hiệu huy hoàng,
ngời sáng. Tâm trạng mênh mang một nỗi niềm khó đặt tên khi lòng chùng xuống ấy
chắc ít nhiều cũng đã chiếm cứ tâm hồn người trẻ nói riêng và người Kitô hữu nói
chung, bởi tất cả chúng ta đều là môn đệ Đức Giêsu, nên chung một đức tin, một đức
ái, một niềm hy vọng, một thử thách.
Sở
dĩ chúng ta hy vọng vì thất vọng đang rình rập bủa vây; sở dĩ đi tìm hy vọng, vì
dáng dấp thất vọng đã quanh quẩn đâu đó đe dọa, bởi sẽ không có ý niệm hy vọng,
nếu trước đó đã không có tư tưởng thất vọng, không có mơ ước “hy vọng”, nếu thất
vọng, tuyệt vọng đã không một lần làm chúng ta hoảng sợ, rùng mình.
Kinh
hãi thất vọng vì bị phản bội, hoảng sợ thất vọng khi bị bán đứng, bỏ rơi, và chúng
ta hiểu thế nào là kinh nghiệm đắt giá của tính trung thực, lòng trung tín, và biết
rõ nguyên nhân của hầu hết thất vọng chính là lời hứa không được tôn trọng.
Tất
nhiên chúng ta cũng thất vọng vì nhiều nguyên nhân khác, như thất vọng vì thiếu
sót, lầm lỗi của chính mình, thất vọng vì “lực bất tòng tâm”, thất vọng vì khả năng giới hạn của người khác mà mình đã lầm
khi đánh giá qúa cao, thất vọng vì không gặp “thiên thời, địa lợi, nhân hoà”,
thất vọng vì hoài bão không thành… Nhưng nguyên nhân chính của thất vọng vẫn là
“lòng người đổi trắng thay đen”, con người không trọn lời thề, không giữ lời hứa,
thất tín, bất trung với nhau.
Chính
vì “chết lên chết xuống” do những tai nạn trong tương quan giữa ta với người ở đời
thường, mà chúng ta bị ám ảnh cả trong đời sống tâm linh, khi “phân vân, nghi
ngờ” Lời Hứa của Đấng chúng ta tin, và trên con đường theo Đức Giêsu, con người
“đức tin” của chúng ta đã có những lúc mệt mỏi, chán chường, hoang mang, mất hướng,
như thách đố phải vượt qua, như cám dỗ phải lướt thắng, như thử thách để trưởng
thành. Nhưng chính trong những thách đố, cám dỗ, thử thách tưởng không thể vượt
qua đó, có Đức Giêsu “toát mồ hôi máu” trong vườn Cây Dầu khi sấp mặt xuống xin Chúa Cha cất đi
chén đắng khổ hình Ngài sắp phải uống (x. Mt 26,39), có Đức Giêsu đau đớn rướn
mình thổn thức trên Thánh Giá: “Lậy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi
con?” (Mt 27,46) hiện diện và đồng hành với chúng ta. Cũng chính lúc không
còn thắm thiết, nồng nàn, không còn nhiệt huyết, hăng say với ơn gọi và sứ vụ lại
là lúc trái tim quặn thắt của Đức Giêsu trước thinh lặng xa vắng, lạnh lùng của
Chúa Cha đang chung nhịp đập với qủa tim muốn vỡ toang, nát vụn vì thử thách của
chúng ta. Điều đó nói lên Đức Giêsu thương yêu đến cùng, và không quên Lời Ngài
đã hứa, không bỏ rơi những ai đi theo Ngài, không thay mặt đổi lòng như phàm nhân
bất trung, bất tín, vì Ngài là Đấng hằng trung tín, yêu thương đến cùng và không
bao giờ làm ai phải ngã lòng, thất vọng.
1.
Đức Giêsu là Hy Vọng của
chúng ta ở đời này và đời sau:
Nhiều
người vô thần lên án người có đạo là những người không sống đời này, không quan
tâm đến cuộc sống hôm nay, với những vấn đề của thế giơi hiện tại, nhưng chỉ mơ
màng đời sau, mơ ước viển vông cuộc sống ở thế giới bên kia, một thế giới không
biết có hay không, thực hay hư, chắc chắn hay hão huyền. Và người ta nhìn người
Kitô hữu như những con người không bao giờ sống, không biết sống, không trân trọng
cuộc sống, sống bên trên và ngoài lề cuộc
sống.
Thực
ra, lý tưởng sống, lẽ sống, ý nghiã sống của người Kitô hữu chính là thế giới này,
cuộc đời này, với những con người đương thời, đồng thời đang sống, bởi giới luật
duy nhất của Kitô giáo là “mến Chúa yêu người”, và mến Chúa chỉ có giá trị khi
yêu người, bởi Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa, mà lại ghét anh em mình, người
ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến
Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4,20)
Hơn
nữa Đức Giêsu, Thiên Chúa của Kitô giáo là “Thiên Chúa làm người”, một Thiên Chúa
không chỉ ở trời, chỉ ở trên cao, nhưng xuống thế gian làm người, sống như con
người giữa thế giới loài người, nên làm người Kitô hữu chính là làm người như Đức
Giêsu Thiên Chúa, trở nên con người như con người Đức Giêsu, khi trân qúy, xây
dựng cuộc đời, và yêu mến, phục vụ con người cùng sống trong thế giới.
Vì
thế, niềm hy vọng được hạnh phúc ở đời này cũng thúc bách người tín hữu như hy
vọng được hạnh phúc đời sau. Cả hai “đời này và đời sau” đều quan trọng và cùng lúc khơi dậy trong lòng người Kitô hữu
niềm hy vọng ở Lời Hứa mà Đức Giêsu đã hứa cho những ai đi theo Ngài.
Trước
câu hỏi của Phêrô: “Phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng
con sẽ được gì?” (Mt 19,27), Đức Giêsu đã khẳng định niềm hy vọng hạnh phúc của
chúng ta ở đời này và đời sau là có nền tảng: “Phàm ai bỏ nhà cửa, anh em,
chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy thì sẽ được gấp bội, và còn
được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp” (Mt 19,29). Thánh sử Luca còn nhấn mạnh: “Chẳng
hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất vì Thầy và vì
Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh
em, chị em, mẹ, con, hay ruộng đất gấp trăm… và sự sống vĩnh cửu đời sau” (Lc
10,29-30).
Như
thế, niềm hy vọng hạnh phúc đời này và đời sau của chúng ta được bảo đảm do Lời
Hứa của Đức Giêsu. Và đức tin mời gọi chúng ta tin Đức Giêsu không thất hứa, không
nuốt lời, không lừa dối, bịp bợm, không thay dạ đổi lòng, nhưng thực hiện trọn
vẹn Lời Hứa, như đã sống lại ngày thứ ba đúng y lời Ngài đã hứa, mà các môn đệ
của Ngài đã không nhớ và không tin.
Chính
sự sống lại từ cõi chết như Lời Hứa của Đức Giêsu đã đảm bảo lẽ sống của cuộc sống
hôm nay, và hạnh phúc đời sau đối với những ai tin ở Ngài.
2. Đức
Giêsu đã làm chứng Ngài là Thiên Chúa trung tín với Lời Hứa:
Suốt
cuộc đời dương thế, Đức Giêsu đã không làm ai phải thất vọng, nếu tin vào Ngài:
Ngài không làm thất vọng những người đau ốm, tật bệnh: khi “thiên hạ mang đến
cho Người mọi kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền: những kẻ bị quỷ ám,
kinh phong, bại liệt; và Người đã chữa họ” (Mt 4,24); Ngài không làm thất vọng
viên sĩ quan đại đội trưởng ngoại đạo, khi ông khiêm tốn xin Ngài: “Thưa Ngài,
tôi chẳng đáng đón rước Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy
tớ tôi được khỏi bệnh” (Mt 8,8); Ngài không để niềm hy vọng của người đàn bà
ngoại đạo xứ Canaan biến thành tuyệt vọng, khi bà một mực tin tưởng con bà sẽ được
chữa lành, mặc dù Ngài đã tỏ ra lạnh lùng để thử lòng tin của bà (x. Mt
15,21-28); Ngài đã biến tuyệt vọng của bà goá thành Nain, và chị em Mátta,
Maria ở Bêtania thành niềm vui khôn tả, khi cho con trai bà goá, và em trai hai
chị em Mátta, Maria sống lại (x. Lc 7,11-15 ; Ga 11,1-44).
Là
Đấng được Thiên Chúa sai đến, để “loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố
cho kẻ giam cầm biết họ đươc tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự
do cho người bị áp bức…” (Lc 4,18), Đức Giêsu đã trung tín với sứ vụ của Ngài
khi được Chúa Cha sai đến thế gian. Không những chữa lành bệnh tật, xoa dịu những
đau đớn của thân xác, Ngài còn là niềm Hy Vọng cho những tâm hồn đau khổ vì nghèo
khó, bị ăn hiếp vì hiền lành, chịu thiệt thòi vì sống và làm điều công chính, bị
bắt bớ, truy lùng vì xây dựng công lý, hoà bình, bị vu khống, bách hại vì sống ơn
gọi và thực hiện sứ vụ được Thiên Chúa trao phó, để tất cả những ai tin theo Ngài
sẽ gặp được ở Ngài niềm ủi an, lòng thương xót, bình an đích thực, và phần thưởng
vô cùng lớn lao là được thấy Thiên Chúa và hạnh phúc trong Vương Quốc của Ngài
(x. Mt 5,1-12).
Là
Thiên Chúa của lòng thương xót, Đức Giêsu đã không để ai tin tưởng Ngài phải thất
vọng, vì không được Ngài xót thương, như
đôi lúc chúng ta thấy mình tội lỗi quá, và ý nghĩ “khó có thể được Chúa thứ tha”
làm chúng ta lo sợ, hoảng hốt, thất vọng.
Tâm
trạng lo lắng do chưa đủ tin tưởng ở Lời Hứa của Đức Giêsu: “Tôi không đến để kêu
gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13), cũng như “không đến
để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá
chuộc muôn người” (Mt 20,28) rất thường ám ảnh chúng ta, và đó là đòn rất thâm độc
của ma qủy, khi đánh phá niềm hy vọng được Thiên Chúa thương xót, bởi đánh gục được
niềm hy vọng, ma qủy nắm chắc phần thắng, như đã cướp mất niềm hy vọng vào Thầy
mình của Giuđa, sau khi bán Thầy và nghe tin Thầy bị kết án đóng đinh. Chính vì
để mất niềm hy vọng vào lòng thưong xót, bao dung, yêu thương vô cùng và đến cùng
của Thầy, mà Giuđa đã bỏ cuộc, và tuyệt vọng đi thắt cổ tự tử. Khác với Phêrô,
tuy cũng phản bội như Giuđa khi chối Thầy, nhưng Phêrô giữ được niềm hy vọng vì biết đón nhận lòng
thương xót từ ánh mắt của Đức Giêsu, nhờ đó, đã không tuyệt vọng gục ngã (x. Lc
22,61-62).
Là
Thiên Chúa bao dung với Lời Hứa: “tìm
cho kỳ được con chiên bị mất, tìm cho kỳ được đồng tiền không may bị đánh
rơi” (Lc 15,4.8), và mở tiệc ăn mừng “vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã
mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15,24), Đức Giêsu đã không làm thất vọng bước chân
trở về của Giakêu, người thu thuế tham ô, tội lỗi, khi đến tận nhà dùng bữa với
gia đình ông, và âu yếm chúc lành: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này… Vì
Con Người đến để tìm và cứu những gì đã hư mất” (Lc 19,9-10).
Là
Thiên Chúa nhân hậu với Lời Hứa “không lên án ai”, Đức Giêsu đã ban lại niềm hy
vọng được sống cho người đàn bà ngoại tình bị bắt qủa tang đã hoàn toàn tuyệt vọng
trước các kinh sư, Biệt Phái và đám đông rất hung dữ tay cầm sẵn đá để xử tử chị
theo luật Môsê, khi Ngài hỏi các ông quan
toà giả hình, gian ác: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước
đi” (Ga 8,7). Còn Ngài chỉ vắn tắt nhẹ nhàng nói với chị: “Tôi không lên án
chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11).
Là
Thiên Chúa yêu thương sẵn sàng “hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga
15,13), Đức Giêsu đã không để người tử tội cùng chịu đóng đinh với Ngài phải
tuyệt vọng, khi anh nài xin: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến
tôi!”, nhưng đã hứa cho anh Nước Trời: “Tôi bảo thật anh, ngay hôm nay, anh sẽ được
ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,42-43).
Thực
vậy, không ai phải thất vọng khi tin vào Lời Hứa của Đức Giêsu, bởi Ngài là Thiên
Chúa trung tín, như ngày xưa trên dương thế, Ngài đã không làm ai phải thất vọng,
nhưng ban hạnh phúc của niềm hy vọng cho tất cả những ai tin vào Ngài.
3. Giáo
Hội làm chứng Đức Giêsu là Hy Vọng không bao giờ làm thất vọng:
Lịch
sử Giáo Hội, tức lịch sử của đoàn thể những người đi theo Đức Giêsu, lịch sử của
Dân Chúa từ bao đời đã làm chứng Đức Giêsu là niềm Hy Vọng của nhân loại, và hành
trình đi theo Ngài chính là hành trình tràn đầy hy vọng.
Vì
là hành trình tràn đầy Hy Vọng trong Đức Giêsu, Đấng Cứu Thế, mà dân Chúa từ đời này đến đời kia, người Kitô hữu từ thế
hệ này qua thế hệ khác đã không chùn bước Vượt Qua bao nhiêu thử thách cam go để
xây dựng một thế giới được đổi mới nhờ lắng nghe Tin Mừng, một nhân loại hạnh
phúc với “trời mới, đất mới”, ở đó “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không
còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa...” (Kh 21,4).
Với
niềm hy vọng trong Đức Giêsu, người Kitô hữu không còn sợ gian truân, khốn khó,
vu khống, bách hại, không nản chí bỏ cuộc, buông tay đầu hàng sự dữ, thần dữ trên
đường yêu thương phục vụ anh em, bởi chung quanh họ, không ít người đã thất vọng
trước vô ơn, đã tuyệt vọng trước tráo trở phản bội, và thu mình vào vỏ ốc an toàn,
an thân, an phận vì qúa sợ tha nhân, qúa ngại tình đời, qúa ngao ngán lòng người
đổi trắng thay đen.
Những
nhân chứng sống động của niềm hy vọng nơi Đức Giêsu trong Giáo Hội thì vô kể. Họ
là những Giám Mục, linh mục, tu sĩ nam nữ tận hiến đời mình để làm chứng niềm
hy vọng Nước Trời, đã trao dâng đời mình để đem niềm hy vọng của Tin Mừng, Lời
Hứa của Thiên Chúa đến với muôn dân, đã hy sinh chính mạng sống mình để niềm hy
vọng của Tin Mừng tình yêu được gieo vãi, nẩy mầm, lớn lên giữa lòng thế giới đầy
bạo lực, như bẩy tu sĩ Pháp đã bị giết dã man năm 1996 tại Tibéhirine, Algérie,
nơi các vị phục vụ những người dân nghèo, bởi những người hồi giáo qúa khích. Họ
cũng là những giáo dân làm chứng niềm hy vọng nơi Đức Giêsu, khi tin vào Lời Hứa
được Thiên Chúa yêu thương và cứu độ; là những người thành tâm thiện chí thao
thức, khắc khoải và nỗ lực đi tìm niềm hy vọng ở Lời Hứa của Thiên Chúa. Và mãi
mãi đến tận thế, đoàn thể những người
khao khát sống niềm hy vọng ở Lời Hứa vẫn theo nhau lên đường, tiếp nối
nhau và cùng đi trên hành trình tràn đầy hy vọng của Đức Giêsu.
Qủa
thực, không đặt niềm hy vọng nơi Đức Giêsu là Thiên Chúa trung tín với Lời Ngài
hứa, người môn đệ khó có thể vượt qua những thử thách cam go, những thách đố kinh
khủng, những cám dỗ không luôn dễ lướt thắng. Không hy vọng ở Đức Giêsu là ơn
phù trợ và quan phòng của người cha nnhân hậu thương yêu con cái mình, chúng ta
khó kiên trì để “bắt đầu lại” mỗi ngày, “trở lại” liên lỷ, sau vô số những vấp
ngã vì yếu đuối. Và không hy vọng ở Lời Hứa bao dung thứ tha, chúng ta làm sao
dám ngẩng mặt nài xin ơn tha tội và khiêm tốn lên đường trở về nhà cha, như người
con hoang đàng trong Tin Mừng Luca? (x. Lc 15,11-32), không hy vọng ở tương lai
cuối đường hầm có Thiên Chúa giang tay đợi chờ như người cha nhân hậu hằng ngày
ra đầu ngõ ngóng con, chúng ta làm sao có thể chết bình an như người trộm lành
khi giờ Chúa đến?
Vâng,
đời chúng ta tuy ngắn nhưng cũng đủ dài để thấm thiá những thất vọng do cuộc đời,
người đời và do chính chúng ta gây ra cho mình và cho anh em; qũy thời gian tuy
không lớn, nhưng cũng đủ để chúng ta “ngậm đắng nuốt cay” vì những giờ phút ngã
lòng, thất vọng. Tuy thế, những kinh nghiệm chán chường, nản chí, thất vọng với
tình đời, người đời, chuyện đời ấy ít nhiều cũng thúc bách chúng ta lên đường đi
tìm Niềm Hy Vọng không bao giờ làm thất vọng là Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người,
Đấng luôn có mặt và đồng hành với những ai tin vào Ngài.
Nếu
đời không tin ta và ta không tin đời, và hy vọng của ta với người đời lịm tắt
thì đây là đau khổ lớn của đời làm người, đau khổ mà chỉ một mình Đức Giêu, nguồn
Hy Vọng mới chữa lành được vết thương Thất Vọng; nếu ở đời, tin người là tự sát,
hy vọng ở người là mang vào mình tuyệt vọng thì qủa thực đời là biển khổ, là đại
dương sầu buồn, và đó là bất hạnh lớn của thân phận người, mà chỉ một mình Đức
Giêsu, Thiên Chúa của Lời Hứa mới ban lại cho chúng ta niềm vui sống, niềm tin
tưởng ở cuộc đời, lòng tín nhiệm người chung quanh, bởi trên đường đời muôn lối,
giữa muôn người đời, không mấy ai luôn gặp may mắn để chẳng bao giờ phải thất vọng.
Và
lời Đức Giêsu luôn văng vẳng bên tai người môn đệ trên từng cây số đường đời
nhiều rủi ro thất vọng: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào
Thầy” (Ga 14,1), “Cứ yên tâm, có Thầy đây, đừng sợ!” (Mc 6,50) để niềm hy
vọng chúng ta có trong Đức Giêsu, Thiên Chúa không bao giờ làm chúng ta thất vọng.
Jorathe
Nắng Tím