Tìm kiếm Blog này

Chủ Nhật, 10 tháng 3, 2019

Bàn Tay Đức Kitô

https://www.youtube.com/watch?v=_5wHUpvjmQA
Chẳng phải soi gương hay ngoái cổ, vặn mình để nhìn đôi tay, vì ai cũng thấy bàn tay mình rất rõ: bàn tay ngay trước mặt, mở mắt ra là thấy tay, nhắm mắt lại cũng biết tay đang làm gì, xòe tay ra là thấy trong ngoài, mặt trên mặt dưới, thấy từng ngón tay, lóng tay, móng tay, chỉ tay, vân tay. Hơn tất cả, bàn tay là phần thân thể gần gũi, quen thuộc, trung thành và siêng năng nhất, đúng như huân chương lao động được truy tặng: “Tay làm, hàm nhai”.
Tay làm không mệt mỏi, hết việc nhà đến việc người, việc chung việc riêng, việc nhỏ việc lớn và thỉnh thoảng mới được nghỉ ngơi, săn sóc, trang điểm. Tay làm được nhiều việc: cả việc xấu lẫn việc tốt, cả xây dựng lẫn phá hoại, cả việc lành lẫn việc ác, cả nhân đức lẫn tội lỗi. Tay bao sân ráo trọi từ chuyện nhỏ như bắt chấy, chải đầu đến chuyện lớn như phất cờ lệnh, điều quân khiển tướng. Tay can thiệp khắp nơi, vào mọi sinh hoạt từ tri thức đến tình cảm, tâm linh.
Sinh hoạt tri thức thì tay giúp nhận biết một thực tại bên ngoài chủ thể: tay sờ một vật để biết nóng lạnh, cứng mềm, mỏng dày, tròn méo. Tay sắp xếp, chế tạo, điều hoà cho sinh hoạt thêm mỹ quan, tốt đẹp. Tay hướng dẫn, chỉ đạo, trình bày để kiện toàn công trình cho đời sống thoải mái, dễ thở. Nhưng tay cũng cản trở, ngăn chặn, làm hỏng nhiều ước mơ hạnh phúc .
Sinh hoạt tình cảm thì bàn tay là nhịp cầu thông cảm, nối kết, liên lạc. Bàn tay xiết chặt cho ấm tình bạn hữu, một vẫy tay thân thiện cho mát lòng kẻ ở người đi, một bàn tay trên vai đặt nhẹ nguôi ngoai tủi thân, bất hạnh. Trong tình đôi lứa thì bàn tay không thể thiếu, mà nếu thiếu thì quả là một điều không may. Bàn tay tình nhân đóng góp rất nhiều trong chuyện tình của đôi nhân tình: bàn tay đưa em vào mộng, bàn tay đưa anh vào đời. Đưa được nhau vào đời, vào mộng, thì quả thực “toàn năng” đôi bàn tay nhân tình. Chẳng thế mà chàng với nàng cứ hở ra là nâng niu, âu yếm bàn tay nhau…
Đời sống tâm linh thì có đôi tay chắp lại hoặc nâng cao cầu nguyện, có bàn tay dâng lễ, có bàn tay chúc lành, xức dầu, thánh hiến, tha tội; rồi những bàn tay “nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa”, những bàn tay đấm ngực ăn năn, những bàn tay đón xin Thánh Thể, những bàn tay chia sẻ ơn an bình.
Cách chung thì đôi bàn tay, dù thô kệch, bụ bẫm, xương xẩu, hay thon thả búp măng cũng đều đẹp và cần thiết. Đẹp cho người như bàn tay mẹ chăm sóc con thơ, như bàn tay chồng nựng nịu vợ hiền, như bàn tay lương y băng bó, chữa lành bệnh nhân, như bàn tay cô giáo nắn nót dòng chữ đầu đời học trò của em bé mẫu giáo. Cần thiết cho đời như bàn tay nông dân cày sâu cuốc bẫm, như bàn tay người phu quét đường mỗi sáng tinh sương, như bàn tay thoăn thoắt kim chỉ của chị công nhân xưởng dệt… Và đời người, cuộc đời đã rất đẹp nhờ những bàn tay khéo léo, tận tụy này.

Tuần Thánh là dịp được chiêm ngắm kỹ càng bàn tay Đức Kitô: bàn tay rửa chân, bàn tay cầm bánh, rượu, bàn tay bị trói chặt, bàn tay bị đinh đóng, bàn tay ban Bình An.
1. Bàn tay Đức Kitô đã rửa chân con người, không phải bàn chân người treo trên tường, in trong sách, nhưng bàn chân lem luốc, bụi bặm, chai nứt, dơ bẩn của con người thật đạp đất, dính bùn, vương bụi. Bàn tay đã âu yếm rửa sạch bụi đời, bùn hôi, đất bẩn của đôi bàn chân cáu ghét và cẩn thận lau khô với tất cả trìu mến, trân trọng.
Đức Kitô đã cúi xuống, lấy tay rửa chân con người để con người được chính bàn tay thánh thiện của Ngài nâng lên cao. Rửa chân không chỉ là rửa chân sạch rồi thôi, nhưng là rửa sạch để nâng lên cao, rửa sạch để thánh hiến, rửa sạch để biến đổi thành người thừa kế, bạn hữu của Thiên Chúa. Bàn tay Thiên Chúa đã rửa chân con người để con người nhận được “thiên tính” của Thiên Chúa. Bàn tay đã không rửa mà còn thánh hoá, biến thành “thánh” thân phận người tầm thường, bất xứng. Bàn tay đã không rửa mà còn âu yếm gửi trao tình cha mầu nhiệm khi biến “con hoang đàng” thành “con thừa kế”. Mầu nhiệm tình yêu được diễn tả qua đôi tay Thiên Chúa đang rửa từng bàn chân rong ruổi, chai sạn, nứt nẻ, trần trụi, hoang đàng của con người trong chính hoàn cảnh hiện tại không chuẩn bị, sửa soạn, sắp đặt trước. Tình yêu đến ngay trong đời thường, giữa đời sống ngổn ngang, trong cõi lòng bừa bộn. Tình yêu không chọn ngày đẹp, giờ linh, cửa nhà tươm tất như các tông đồ đã sửng sốt khi Đức Kitô bất ngờ đứng dậy, lấy nước, quỳ xuống rửa chân cho các ông năm xưa. Đôi bàn tay yêu thương của Đức Kitô đã chăm nom, săn sóc đến tận lòng bàn chân bụi bặm là chỗ thấp nhất, bẩn nhất trên thân thể con người. Tình yêu ấy đã xuống tận cùng thấp hèn của con người để không một tội lỗi nào mà không được thứ tha, không một yếu đưối nào mà không được nâng đỡ, không một tội nhân nào mà không được âu yếm, yêu thương.

2. Bàn tay Đức Kitô đã dâng của lễ thánh thiện lên Chúa Cha khi Ngài cầm lấy bánh tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ. Của lễ hôm nay là chính Mình, Máu Ngài, của lễ duy nhất thánh thiện đẹp lòng Thiên Chúa Cha. Khi nâng cao tay dâng chính mình, Đức Kitô đã dâng cả nhân loại trong cùng của lễ để con người được giao hoà với Thiên Chúa “nhờ Ngài , với Ngài và trong Ngài”. Con người từ nay được hiệp thông với Thiên Chúa nhờ đôi tay đã rửa chân và dâng lễ của Đức Kitô. Không có Ngài rửa chân và dâng lễ, quan hệ giữa nhân loại và Thiên Chúa vẫn mãi là một quan hệ căng thẳng, không bình thường, rất bất lợi cho con người.
Nhưng bàn tay thánh thiện, hay làm phúc ấy đã bị trói chặt và đóng đinh ngay hôm sau. Người ta đã không để đôi tay ấy yêu thương, không cho đôi tay ấy âu yếm, chăm sóc, chữa lành. Bằng giây da, đôi tay ấy đã bị buộc chặt để không chúc phúc, thi ân được; bằng đinh sắt, đôi tay ấy đã bị đâm thủng để không âu yếm, chữa lành được. Đôi bàn tay đã bị trói và đóng đinh vào thập tự như bản án tử hình con người dành cho Thiên Chúa.
Trói chặt và đóng đinh đôi bàn tay Thiên Chúa, con người cũng trói và đóng đinh nhau. Người ta đóng đinh nhau vì ghen ghét, ganh tỵ khi thấy đôi tay người khác khéo hơn, được việc hơn tay mình; vì độc quyền, muốn một mình bao sân khi thấy đôi tay người khác cũng làm những việc mình đang làm; vì cầu toàn, không chấp nhận những bàn tay yếu đuối, vụng về hơn mình; vì ác độc không muốn thấy những bàn tay xây dựng, canh tân, phát triển; vì thuộc về thần dữ nên vội vã triệt hạ những đôi tay gieo vãi hạt giống Tin Mừng.
Sáng mai, khi trời chưa sáng Đức Kitô sẽ sống lại, giang đôi tay ban Bình An cho Maria Mađalêna và các tông đồ. Ngài cũng đặt bàn tay trên vai mỗi người và âu yếm bảo: “Thầy đây, con đừng sợ”. Xin cho con đừng sợ đặt tay mình vào tay Chúa để yêu thương, phục vụ anh em, săn sóc, chữa lành người bất hạnh, cộng tác xây dựng một cuộc sống bác ái, huynh đệ. Xin đừng để con sợ khi người khác trói tay hay đóng đinh vào Thánh Giá, vì lạy Chúa, đôi tay con có bị trói, bị đóng đinh với Chúa mới có thể như Chúa giang rộng và mở lớn để trao tặng Bình An, Bình An của một tình yêu tự hiến, sẵn sàng chết cho người mình yêu như Chúa đã yêu và đã chết vì yêu con và mọi người.
Jorathe - Nắng Tím
Mùa Chay 2012

Thứ Tha - Hoà Giải

https://www.youtube.com/watch?v=wcmxNqvQVkc
Đời ai cũng có những biến cố: có biến cố làm chao đảo, “xất bất xang bang”, có biến cố như “bài học nhớ đời”, có biến cố dạy “biết thế nào là lễ độ”, có biến cố cho đời lên hương, có biến cố làm đời xuống dốc... Nhiều thể loại biến cố, nhiều tác dụng của biến cố, nhiều phản ứng trước biến cố, nhiều mức độ đón nhận biến cố và nhiều thay đổi lợi hại vì biến cố.
Với các tông đồ và giáo đoàn Kitô hữu đầu tiên, cuộc tử nạn và sống lại của Đức Kitô đã là một biến cố quá lớn quyết định vận mệnh của mỗi người và lẽ sống, lý tưởng của cộng đoàn. Những ngày sau biến cố sống lại, các tông đồ và cộng đoàn tín hữu đầu tiên đã ngập tràn niềm vui, nhất tâm, hiệp nhất (Cv 5,12), hăng say rao giảng và làm chứng Đức Kitô, Thiên Chúa đã chết và sống lại (Cv 2,22-24). Các vị làm phép rửa tha tội, ban ơn Thánh Thần (Cv 2,38), các vị nhân danh Đức Kitô chịu đóng đinh làm phép lạ đuổi quỷ, trừ tà, chữa bệnh cho nhiều người (Cv 1,6-7), các vị ra khỏi ranh giới Israel và đến với dân ngoại (Cv 13,44-46). Nhưng cũng như Đức Kitô, các vị bị cô lập, truy lùng, bắt bớ, đánh đòn, ném đá chết bởi các kỳ mục và kinh sư. Têphanô, chứng nhân đầu tiên đã lấy máu và mạng sống làm chứng cho Đức Kitô và cuộc tử đạo của ngài đã được ghi lại chi tiết trong Công vụ tông đồ (Cv 7,51-60).
Nhưng đâu là cốt lõi của biến cố đã thay đổi toàn bộ, nhanh chóng suy nghĩ, chọn lựa và nếp sống của các tông đồ? Đâu là điểm nhấn đã ảnh hưởng mãnh liệt trên các ông? Điều gì nơi Thánh giá của Đức Kitô đã làm chấn động nội tâm các ông? Từ những người háo danh trở thành người hiền hoà, nhẫn nhục; từ ganh tị, tranh chấp biến đổi thành khiêm tốn, yêu thương; từ nếp sống nhỏ nhen, ích kỷ trở nên vị tha, quên mình, các ông đã thực sự được đổi mới.
Chắc chắn các ông đã nhận được nhiều từ biến cố tử nạn và sống lại của Thầy: nhận ra sức nặng của hận thù đè trên đời người, sức nặng của quyền lực trấn áp người cô thân, yếu đuối, sức nặng của “mồm loa mép giải” vu cáo người vô tội, sức nặng của nghi ngờ, đố kỵ làm đui chột tâm hồn, lu mờ lương tâm, sức nặng của tham lam vật chất, danh vọng cấm vận đường tình của trái tim, hủy hoại tình hiệp nhất, huynh đệ. Các ông cũng nhận ra yếu đuối của con người và của chính các ông. Nhưng điều các ông nhận ra rõ nhất, ấn tượng nhất nơi Đức Kitô chịu đóng đinh, đó là trái tim thứ tha và hoà giải của Ngài. Đây là điểm đã đánh động và biến đổi con người các ông và nhờ thái độ sẵn sàng và dễ thương, nhờ tinh thần khiêm tốn phục thiện và ngoan ngoãn, bé nhỏ trước Thánh Thần, các ông đã học được bài học Thứ Tha và Hoà Giải nơi mầu nhiệm Thánh Giá.



1.   Các ông đã nghe Đức Mẹ, Gioan, Mađalêna kể lại những gì Thầy đã nói, đã làm trên Thánh Giá. Là tông đồ duy nhất trong nhóm mười hai đã có mặt giờ hấp hối của Thầy, như người chứng quý hiếm, Gioan đã nhìn tận mắt, nghe tận tai Đức Kitô thoi thóp, mệt nhọc cầu xin ơn tha thứ. Cũng như Đức Mẹ, ông đã không bỏ sót một lời Thầy cầu nguyện cho những người đã đóng đinh Thầy, ông chứng kiến cảnh Thầy hứa Nước Trời cho người bạn tử tội, ông đã thấy, đã nghe và làm chứng trái tim Thầy thứ tha.
Háo hức muốn biết Thầy đã nói gì trước khi tắt thở, các tông đồ đã xúc động khi được nghe kể về lòng xót thương, tha thứ của Đức Kitô. Các ông ngạc nhiên lắm, vì ngỡ Thầy sẽ nói những chuyện khác quan trọng hơn, những chuyện liên quan đến Thầy và anh em; đàng này, Thầy chỉ lo thứ tha, bận tâm về chuyện tha thứ. Sứ mệnh tha thứ như chiếm trọn trái tim Thầy, ám ảnh đời Thầy, nên ở đâu, giờ nào, trong hoàn cảnh nào Thầy cũng bao dung tìm dịp tha thứ. Thầy nhạy bén với thứ tha, quấn quít với tha thứ, nên đâu có tội nhân, chỗ nào có tội lỗi là có Thầy, có lời Thầy tha thứ, có tình Thầy thứ tha, có ơn Thầy đổi mới (Lc 23,34.43).
Chính vì nhận ra trái tim thứ tha của Thầy mà các tông đồ đã không một lời oán trách, căm thù những người đã gây ra cảnh dâu bể cho Thầy trò; không sắp xếp, âm mưu báo oán, trả thù các người Biệt Phái gian ngoa, ác độc; không một thái độ thù nghịch đối với Hội Đồng Kỳ Mục; không xách động, bôi nhọ, lên án chính quyền đã bất công kết án Thầy; trái lại, các ông đã ôn hoà, lạc quan, vui vẻ và căn dặn nhau: “Hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền lành và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng. Hãy duy trì sự hiệp nhất mà Thánh Thần mang lại bằng đời sống thuận hoà, gắn bó… Vì chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Ep 4,2-6).
Không lời nào tình nghĩa, bao dung, dễ thương hơn khi xóa bỏ hận thù, quên đối kháng, đố kỵ để gọi mọi người là anh em cùng một cha. Không những thế, các vị còn tin tưởng: Thiên Chúa hành động qua mọi người và trong mọi người. Không còn thù địch, đối phương, nhưng chỉ còn những người con cùng cha, cùng một niềm tin, hy vọng.
Bởi đâu, động lực nào, sức mạnh nào, con người nào đã biến đổi tâm hồn các ông nên mới, quảng đại, bác ái và lạc quan, hy vọng như vậy? Chính gương thứ tha của Đức Kitô trên Thánh Giá đã thay đổi tâm hồn các ông và khởi đi từ tha thứ, các ông mang lấy tinh thần mới, con người mới, đời sống mới trong ơn Bình An của Đức Kitô phục sinh. Chính tình yêu tha thứ của Ngài trên Thánh Giá đã dạy các ông quên đi hận thù, đừng báo thù, thôi là địch thù, vì đó là đòi hỏi cấp bách của Tình Yêu Thánh Giá.
Tin Mừng được viết lại bởi các tông đồ đã không kể gì ngoài tâm tình bao dung và những lời tha thứ của Đức Kitô trên Thánh Giá. Điều này đã gây xúc động mạnh và tạo một khúc quặt mới trong đời các tông đồ. Các ông bắt đầu hiểu: Thánh Giá là công cuộc thứ tha và trên Thánh Giá, Thầy đã công khai tha cho tất cả mọi người, trong đó có cả các ông; bởi chính các ông cũng đã xử “không đẹp” với Thầy khi phản bội, chối từ, bỏ trốn, tránh mặt… Hơn ai hết, các ông biết giá trị của ơn tha thứ, vì hơn ai hết, các ông thấy mình cần được thứ tha.
Nhìn Đức Kitô hấp hối trong lời cầu xin ơn tha thứ, Gioan đã không thể cầm lòng. Ông ghi tạc từng lời Thầy và kể lại không thiếu một chi tiết để anh em cùng chiêm ngưỡng tình yêu vĩ đại của Thầy. Và các ông bảo nhau: phải biết thứ tha, hiền hoà, ngay thẳng và kính trọng những người phỉ báng, vu khống mình (1Pr 3,16).
Trong tất cả những lần hiện ra với các môn đệ, Đức Kitô phục sinh đã không hề nhắc đến một lầm lỗi của ai, hay trách móc, kêu gọi trả thù, báo oán ai. Chỉ một lời chúc “Bình An cho chúng con” (Ga 20,19), Đức Kitô đã đem niềm vui tha thứ đến những tâm hồn hạnh phúc vì được thứ tha. Cái chết của Ngài đã đem lại bình an thực sự cho con người, vì đó là cái chết của tình yêu thứ tha; cái chết của Thiên Chúa bao dung không chấp lỗi lầm, không ghim tội nhân, không chờ cơ hội báo oán, trả thù. Cái chết ấy có tên gọi là Tình yêu tha thứ.
Mang lấy Thánh Giá trên mình, cho đời mình, người Kitô hữu cũng không thể làm gì khác là nhìn lên Đức Kitô đang thứ tha trên Thánh Giá. Ngoài Thiên Chúa đang thứ tha, người ta không gặp được Thiên Chúa nào khác trên thập tự. Vì thế, khi đeo Thánh Giá trên ngực, treo Thánh Giá trong nhà, đặt Thánh Giá trên bàn làm việc, người ta có thể thất vọng vì không gặp một Thiên Chúa như mình muốn; thất vọng vì Thiên Chúa không đáp ứng ngay những đòi hỏi rất “người” và rất “tôi” của mình; thất vọng vì Thiên Chúa không suy nghĩ, hành động theo “hộp điều khiển từ xa” với chương trình định sẵn, nhưng chắc chắn một điều, người ta sẽ không bao giờ thất vọng khi nhìn lên Thánh Giá để xin ơn tha thứ.
Thực vậy, chỉ là tội nhân, là người có tội, nhiều tội, người ta mới có nhu cầu được tha thứ, mới cần ơn thứ tha, mới thấy Thánh Giá cần treo một Thiên Chúa giàu lòng xót thương hơn ngự một Thiên Chúa “chí công vô tư”. Phải vấp ngã, sa đoạ, hoang đàng, phải bụi bặm, nhem nhuốc tình đời, tội đời mới hiểu thế nào là tình thứ tha, giá trị của nước và máu để thanh tẩy, chữa lành. Người thánh thiện là người có tâm tình của người có tội trước Thánh Giá. Họ là người sống mầu nhiệm Thánh Giá, không sống Thánh Giá như một mầu nhiệm ở xa chỉ để chiêm ngưỡng hay như báu vật chỉ để ngắm nghía, trầm trồ, nhưng như tâm tình chẩy trong máu làm cho trái tim sống động, rung động, cảm động. Đời sống người thánh thiện từ đó sẽ không ngừng mang nặng tâm tình thứ tha của Đức Kitô, Thiên Chúa giàu lòng thương xót để chỉ say mê tha thứ và tìm con người để thứ tha như Ngài.

2.   Tuy tha thứ là đòi hỏi của Đức ái, nhưng tha thứ thường được coi như công việc của trí khôn hơn là hành động cụ thể, sống động. Người ta có khuynh hướng xếp tha thứ vào phạm trù tĩnh hơn phạm trù động, thuộc sinh hoạt trí óc hơn việc làm của bàn tay đời thường. Vì thế mà ta vẫn thường phải nghe: “Tha mà không quên, tha nhưng để đó, tha thì tha vậy thôi”. “Tha mà không quên” là tha mà chưa thả, tha mà vẫn ghim đó, tha nhưng còn giữ tẩy, cầm trịch, nắm chắc đàng chuôi. “Tha nhưng để đó” là tha nhưng vẫn giữ ai đó làm con tin, tha nhưng còn tạm giam, kiểm soát, theo dõi, định kỳ trình diện. “Tha thì tha vậy thôi” tức chưa thôi tức tối, chưa thôi căm giận, chưa thôi nặng lòng. Tha thứ biến thành một tư tưởng thuần tư tưởng, ý nghĩ thuần ý nghĩ không ra được khỏi đầu để chạy xuống tim biến thành công việc của chân tay, thân thể. Vẫn biết: đầu điều khiển, quyết định, nhưng cứ giữ mãi trong đầu, chỉ ở trong đầu thì tha thứ sẽ mãi trừu tượng, vô hình, vô tướng để rồi biến thành một loại tha thứ vô tâm, vô cảm.
Nhiều khi ta đã vô tình giản lược tha thứ vào một ý niệm, một hình ảnh không hồn, không sự sống, không ăn nhậu gì đến da thịt, hoàn cảnh của con người thực, đang sống, khi thứ tha bị nhốt trong những lồng kín “trí khôn, tri thức” mà không được nhập thế vào đời, nhập thể vào chính con người đối tượng của thứ tha. Tha thứ lúc đó sẽ lơ lửng, mơ hồ và mau chóng tan như bọt xà phòng, vì tạm bợ như “Tha mà không quên”, nhất thời như “Tha nhưng để đó”, bất nhất như “Tha thì tha vậy thôi”. Tha thứ trong những trường hợp này đã bị biến thành một tấm biểu ngữ của lòng thương xót, tờ rơi quảng cáo cho một kế hoạch có giai đoạn, phấn son trên mặt chú hề đang làm ảo thuật đánh lạc hướng khán giả.
Không phải ngẫu nhiên, ngẫu hứng mà Đức Kitô đã nhấn mạnh việc “bỏ của lễ đã sẵn sàng ở đó mà đi về hoà giải với người anh em” (Mt 5,24), nếu tha thứ khơi khơi, kiểu tha không thả vừa kể được Ngài chấp nhận. Chắc chắn những kiểu tha “thả nổi, tà tà, tha như không tha” đã không thành sự trong ý muốn của Đức Kitô, nên Ngài mới đặt vấn đề “đi về hòa giải” để tha thứ trở thành tha thứ thật, tha thứ tận đáy lòng, tha thứ “tận củ tỷ, nguyên con”, tha thứ như hành động quyết liệt, cấp bách của bác ái.
Đòi hành động Hoà Giải đi kèm tha thứ, Đức Kitô muốn tha thứ của trí phải đáp xuống cuộc đời, nhào vào đời người, đến với con người sống động qua việc làm cụ thể, thực tế. Tha thứ lúc đó sẽ được hoà giải dẫn đến điểm hẹn gặp gỡ, cảm thông, yêu thương, chia sẻ là hoa trái của thứ tha đích thực.
Trên Thánh Giá, Đức Kitô đã không chỉ ậm ừ tha thứ, nhưng ngoái cổ nhìn, gắng gượng nói, lấy hết sức bình sinh cầu nguyện thành lời. Cử chỉ gắng gượng “nói với”, rướn mắt ngước nhìn, gồng mình nguyện xin là hành động gặp gỡ, tìm đến đối tượng hoà giải. Tha thứ của Đức Kitô không tĩnh, nhưng động; không chỉ là tư tưởng, ý nghĩ nhưng là việc làm, hành động; không im lặng, lạnh lùng nhưng mở lời nồng nhiệt; không ỡm ờ, cho qua chuyện nhưng xuất phát tận trái tim vào tận đời sống. Tha thứ của Đức Kitô trên Thánh Giá là ánh mắt hoà giải, môi miệng hoà giải, chân tay hoà giải, toàn thân con người hoà giải. Hình ảnh người cha nhân từ chạy ra đầu ngõ, mắt rưng lệ, hai tay ôm choàng lấy con, miệng líu lo mừng con trở về và hân hoan bảo gia nhân dọn tiệc là hình ảnh hoà giải của tha thứ. Ông đã tha cho cậu, nhưng không tha để đó, không tha rồi ngồi “ủ sụ một đống tối sầm”, hay tha nhưng còn giận, tha nhưng đòi con phải lý giải, tường trình, thú tội công khai, trịnh trọng xin lỗi. Người cha trong Tin Mừng đã hoà giải cùng nhịp với tha thứ; đã hành động hoà giải cùng ý nghĩ thứ tha; đã hiện thực hoá quyết định thứ tha bằng đôi chân, vòng tay hoà giải. Ông đã thực hiện đúng nguyên tắc, tiến trình của thứ tha như Đức Kitô muốn: tha thứ và đồng thời đi hoà giải với anh em.
Thứ tha có hoà giải như thế sẽ không còn là thứ tha suông, thứ tha lấy lệ, thứ tha kiểu tạm tha, nhưng thứ tha có hoà giải sẽ là thứ tha đích thực, thứ tha thánh thiện, thứ tha của tình yêu thương xót, đồng thời cũng là thứ tha khó, thứ tha rướm máu, thứ tha đòi hy sinh; vì người ta sẽ không còn thứ tha nhau mà vẫn nhà ai nấy ở dù là hàng xóm láng giềng kề cận; tha thứ mà thề với lòng chẳng bao giờ thèm ghé thăm, chung vui, chia buồn; sẽ không còn tha thứ cho nhau mà “cạch mặt” nhau muôn kiếp để không còn “tay bắt mặt mừng” từ năm này sang năm khác; sẽ không còn kiểu tha thứ mà được dịp là chơi xấu, châm chích, xiên xỏ; không còn tha thứ mà hở ra là đo ván, giễu cợt, hạ uy tín nhau; không còn tha thứ mà thề nguyền “tru di tam tộc”, cấm con cháu lai vãng, đi lại; không còn tha thứ mà chỉ mặt, gọi tên nhau là “đồ này, đồ kia, thằng kia, con nọ” khi cần; không còn tha thứ kiểu “đầu môi chót lưỡi” mà lòng chất sẵn “một bồ dao găm”; không còn tha thứ mà áp chế nhau phải “tâm phục khẩu phục”, khấu đầu tạ tội; không còn tha thứ mà chờ sẵn, “căn me”, đợi sơ hở để té tát, bôi nhọ; không còn tha thứ mà “vui khi người gặp nạn, buồn khi người gặp may”. Trái lại, hoà giải sẽ là bước chân của tha thứ cho “người gặp lại người, người thương lại người, vì người đã vì người thứ tha”; hoà giải sẽ là bàn tay xiết chặt của thứ tha cho đôi bờ được nối lại, đôi ngả tìm về nhau, đôi giòng chảy ra biển lớn; hoà giải sẽ là dấu ấn, chứng nhận của giao ước thứ tha và nhờ bàn tay, đôi chân, dấu ấn Hòa Giải mà thứ tha sống thực trong tim người, có thực trong đời người, hiện thực trong cuộc đời. Hoà giải cho thứ tha chỗ đứng, chỗ ngồi trong nhà người khác. Hoà giải cho thứ tha nảy mầm, nở hoa trên ruộng đời người khác. Hoà giải cho thứ tha sức mạnh lên đường với người khác. Hoà giải cho thứ tha niềm vui cảm thông, chia sẻ với người khác. Hoà giải cho thứ tha sáng kiến xây dựng đời người khác. Hoà giải cho thứ tha bình an để tin tưởng, cộng tác với người khác và Hoà giải đem chính Chúa là tình yêu thứ tha vào trong mọi cuộc đời.
Bài học quan trọng và căn bản các tông đồ đã học từ Thánh Giá Đức Kitô, chính là Thứ Tha - Hoà Giải. Bài học được thông suốt nằm lòng kể từ lúc Đức Kitô phục sinh hiện đến ban bình an cho các ông, bình an của thứ tha, bình an của hoà giải khi tỏ cho các ông thấy dấu đinh và lưỡi đòng như dấu ấn của tình yêu. Bài học ấy được triệt để áp dụng sau đó trong suốt đời tông đồ khi Chúa Thánh Thần hiện xuống ban sức mạnh, để đến phút cuối cuộc đời dưới gông cùm, gươm đao, các ông vẫn bình an với duy nhất một niềm vui thứ tha, hoà giải. Thánh Giá đã dạy các ông bài học nên thánh, nên thánh như Thiên Chúa cực thánh trong lòng xót thương thứ tha, hoà giải của Ngài. Chỉ với bài học này, Giáo Hội đã bền vững và mãi mãi vững bền, vì không có gì bền vững hơn lòng thứ tha và tinh thần hoà giải trong cuộc sống nhân gian này.