Nghèo
là một sự thực không thể chối cãi trong xã hội loài người. Ở đâu có con người, ở
đó có tất cả mọi vấn đề nhân loại và một trong những vấn đề nhiêu khê của cộng
đồng nhân loại là tình trạng bất bình đẳng giữa con người. Do nhiều nguyên
nhân, đặc biệt sự phân phối thiếu công bằng và không hợp lý, xã hội loài người
luôn căng thẳng vì mức độ chênh lệch, khác biệt về dinh dưỡng, sức khoẻ, giáo dục.
Ba nhu cầu căn bản của con người một khi không được đáp ứng đúng mức, xứng hợp thường đem lại nhiều hậu qủa xấu làm băng hoại
xã hội và bầu khí, ở đó con người sống.
Các
nhà xã hội thường nhấn mạnh sự phân phối không công bằng và cho đó là nguyên
nhân chính làm phát sinh tình trạng nghèo trong một quốc gia. Theo nghiên cứu mới
nhất của Chương Trình phát triển Liên Hiệp Quốc : 20% nhân loại chiếm 82,7% tài nguyên thế giới ; 20% khác với 11,7%
; 60% nhân loại còn lại thoi thóp, nghèo nàn với 5,6%. Thống kê cho ta
thấy độ chênh lệch vật chất đáng sợ giữa người giầu và người nghèo trên thế giới.
Độ chênh lệch càng cao, càng nhiều người nghèo. Đó là cách xếp hạng các quốc
gia phát triển hay không phát triển. Bên cạnh sự phân phối lương thực, tài
nguyên không công bằng, hợp lý là các cuộc chiến tranh và thiên tài mà số nạn nhân lên đến hàng triệu người.
Nghèo
là một thực trạng xuất hiện dưới nhiều khuôn mặt, khiá cạnh, bình diện. Nó xâm
lấn và đe doạ an ninh cá nhân và trật tự
xã hội. Nó làm đảo lộn kỷ cương, tổn thương luân lý bằng những phản ứng bạo động
có tính cá nhân hay tập thể. Nó cũng là mối nguy hiểm cho các nền văn hoá và là
thách đố đáng lo ngại đối với tôn giáo. Sở dĩ nghèo đáng ngại và đáng sợ là vì
nghèo không cho con người nhận ra căn tính làm người của mình khi những quyền
căn bản như được nuôi dưỡng, được chăm sóc khi đau bệnh, được giáo dục, đào tạo
và được hành động với tự do bị lấy đi, hay ít ra bị xén bớt, giảm thiểu khi cảnh
nghèo ập tới khống chế.
Nghèo
là một tội, có khi là tội ác khi nghèo không cho con người được sống mức sống tối
thiểu của con người, mức sống tối thiểu để con người không bị đồng hoá với súc
vật. Nỗi khổ của con người là không thể làm người khi mức sống tối thiểu làm người của mình
không được đáp ứng. Khác con vật ở điểm này khi con vật không nhận ra mức sống
tối thiểu của mình... để không phải khổ đau, khốn nạn như con người.
Nghèo
là một cạm bẫy xô đẩy con người xuống tận bùn đen khi không còn gì bào đảm, bám
víu khi rơi vào cảnh túng quẫn, bần cùng : 3,2% trẻ em nghèo Brésil đi làm từ 5
tuổi để giúp gia đình ; 24% các em 10 tuổi phải làm việc 40 giờ một tuần. Tình
trạng cướp bóc, trấn lột, giết người xẩy ra nhiều trong những khu phố nghèo, quốc
gia nghèo và sĩ số tội phạm ở người nghèo luôn cao so với giới giầu và trung
lưu. Gái điếm cũng là hệ quả của nghèo khi không còn biết làm gì để sống đành
phải “bán trôn nuôi miệng”.
Như
thế, nghèo không phải là một hiện trạng cá nhân, riêng lẻ; nó là vấn đề lớn
mang ảnh hưởng lớn đến phần lớn nhân loại. Nghèo trở thành vấn đề, có khi là
nan đề cho các nhà chính trị, xã hội, luân lý và tôn giáo; vì nghèo gắn chặt
vào thân phận người, bám vào nhiều người, kềm kẹp số đông người, làm khổ hàng
triệu người nên tất yếu phải là đối tượng và vấn đề cần được quan tâm, giải quyết bởi các nhà lãnh
đạo dân sự cũng như tôn giáo. Tránh né vấn đề, thu nhỏ vấn đề, phủ nhận vấn đề
đều là những thái độ không thể chấp nhận. Bởi tự thân, nghèo không chỉ “tội nghiệp” cho cá nhân người nghèo mà còn “tội
nghiệp “ cho an sinh xã hội, cho sự trường tồn, phát triển của quốc gia, cho sức
bật kinh tế cần thiết của cả dân tộc, cho giá trị con người và quyền hưởng hạnh
phúc của đời người. Trong ý thức đó, nghèo không còn là một tội đáng “tội nghiệp”
mà còn là một “trọng tội “ cần được mọi người tiếp tay, hỗ trợ để mọi người có
thể xa tránh.
Cộng
đồng nhân loại lo ngại về con số nạn nhân của đói khát, bệnh tật, thất học ngày
càng gia tăng khắp nơi trên thế giới và không ngừng thực hiện những nỗ lực nhân
đạo: cung cấp lương thực, săn sóc bệnh nhân, tạo cơ hội cho mọi người được đi học.
Những nỗ lực quốc tế này được gọi chung là những hoạt động nhân đạo mà mục đích
là cứu sống, xoa dịu những đau khổ của nạn nhân, tìm cách ngăn chặn những thảm
hoạ và giúp các nạn nhân có một đời sống bình thường, xứng hợp với nhân phẩm.
Các tổ chức nhân đạo có tầm vóc quốc tế này đã đóng góp rất nhiều trong công
tác cứu trợ khẩn cấp và tìm những giải pháp lâu dài giúp đỡ các nạn nhân. Các tổ chức này được xây dựng trên những
nguyên tắc chung như :
a. Nhân loại
: Mục tiêu của hoạt động nhân đạo là con người : cứu người, giúp người, và sự sống
con người là trung tâm của mọi sinh hoạt nhân đạo.
b. Vô tư
: Hoạt động nhân đạo nhắm đến lợi ích của con người bất kể họ là ai, thuộc
chính kiến, tôn giáo, sắc tộc, giai cấp nào. Không đặt bất cứ một điều kiện nào
trong cứu trợ, vì chủ đích duy nhất của mọi hoạt động nhân đạo là cứu sống và
trợ giúp nạn nhân là con người.
c. Trung lập
: Vì chỉ nhắm lợi ích của con người trong khó khăn, hoạn nạn, nên các hoạt động
nhân đạo không được phép xếp mình vào một
chiến tuyến, một phe nhóm, một đảng phái chính trị nào để được hoàn toàn tự do
trong công tác phục vụ nhân đạo, vô vị lợi các nạn nhân.
d. Độc lập
: Hoạt động nhân đạo chỉ nhắm một mục đích duy nhất : cứu người, giúp người,
nên phải từ chối giây mình vào bất cứ một mục tiêu chính trị, quân sự, kinh tế
hay tôn giáo nào.
Với
những nguyên tắc “vàng” vừa kể, các tổ
chức nhân đạo thế giới phần lớn đã đảm bảo được
tính hữu hiệu và trong sáng trong các hoạt động nhân đạo của mình. Tuy
thế, nhiều vấn đề vẫn được đặt ra với những
người làm từ thiện, nhân đạo:
a. “Chỉ như hạt muối bỏ bể ”
Đó là tâm sự của nhiều người làm công
tác nhân đạo khi đứng trước đám đông đói khát, bệnh hoạn, thất học không thể đếm
được. Người ta cảm thấy hoàn toàn bất lực trước khổ đau của đồng loại. Những gì
cho được lúc này thật qúa nhỏ bé, chẳng thấm tháp gì trước nhu cầu cao như núi,
sâu như biển của những thân phận đang cố giành sự sống khỏi tay thần chết.
Không mấy người làm từ thiện đã trở về nhà mình với tâm trạng “thoải mái, mãn
nguyện”, nhưng thường nặng trĩu một nỗi buồn quay quắt và mặc cảm bất lực trước
khổ đau vời vợi của đồng loại. Trước mắt họ còn một đại dương nghèo đói, bệnh tật,
thất học trong khi khả năng trợ giúp chỉ
bé nhỏ như một giọt nước trong đại dương.
Nếu chỉ là “hạt
muối bỏ bể, hay giọt nước trong đại dương” thì ý nghiã của hoạt động nhân đạo ở
đâu ? Đúng thế, nếu chỉ tìm kết qủa đo lường, đong đếm được trong hoạt động
nhân đạo thì ý nghiã khó được tìm thấy khi con số được cứu sống, được trợ giúp luôn
“chẳng bõ bèn gì”... Và tự nhiên người ta sẽ nản chí buông xuôi và không dấn
thân làm từ thiện nữa.
Không ít người
đã rơi vào tâm trạng chán nản, bi quan này. Nhưng vấn đề cần được đặt một cách
khác: nếu không ai làm nhân đạo , không còn những tổ chức từ thiện nữa, thì thế
giới loài người này sẽ ra sao ? Người ta
có còn nhìn nhau như đồng loại ? Chúng ta sẽ ăn nói gì với con cháu khi dậy
chúng tôn trọng phẩm giá con người ?
Điều quan trọng
và căn bản ở đây trong các hoạt động từ thiện, nhân đạo là thái độ cương quyết từ chối tính vô cảm, dửng dưng trước khổ đau
của đồng loại. Tính vô cảm trong xã hội loài người là sự dữ tuyệt đối cần phải
tránh. Người ta có thể yếu đuối khi xúc phạm nhau và điều ấy vẫn luôn đáng tha
thứ; nhưng vô cảm trước nhu cầu cấp bách của nhau là sự vắng bóng tòan phần của
nhân tính mà không tìm được lý do để thứ
tha.
Trong hôn nhân,
nếu vô cảm giết chết tình yêu, thì trong
xã hội, vô cảm giết hết mọi người; bởi vô cảm là nguồn cội của mọi thù hận,
ghen ghét, kỳ thị, bạo hành và cuối đường
của vô cảm, con người sẽ không còn là người . Trước bất hạnh của người khác, ta
có thể lôi ra hàng trăm lý do để thoái thác, trốn chạy; ta có thể viện hàng
ngàn cớ để vắng mặt để khỏi phải dấn thân. Tránh mặt ở nơi mà đồng loại khổ đau
đang cần đến chính là chối bỏ một trách nhiệm luân lý. Luân lý “làm người “đòi
ta phải có mặt tại hiện trường tang thương của đồng loại. Chỉ sự hiện diện đã đủ
làm ta xứng đáng là người và đem lại “hạnh phúc” cho nạn
nhân; bởi người ta chết nhiều vì sự vô cảm
của đồng loại hơn là chết vì bệnh tật, thiếu ăn.
Bên cạnh sự từ
chối vô cảm, hoạt động nhân đạo, tuy không giải quyết hết những vấn đề của nạn
nhân, không đem lại thiên đàng tại thế cho những thân phận khốn cùng;
nhưng là một tiếng nói, là còi hụ báo động
những thiếu sót, tố cáo những lạm dụng, điểm mặt những bất công, vạch trần những
tiêu cực gây tai ương cho con người.
b. Như bao nhiêu tổ chức khác, tổ chức
nhân đạo không tránh được những lạm dụng, tiêu cực.
Có
những nhân viên lợi dụng mục đích nhân đạo để thực hiện những mưu đồ trục lợi
cá nhân. Có những toan tính thiếu lương thiện trong sinh hoạt nhân đạo vì mục
tiêu chính trị, đảng phái... Với ý thức và phương tiện kiểm soát ngày càng hữu
hiệu, các tổ chức nhân đạo quốc tế những năm gần đây đã thực sự nắm lại những
nguyên tắc căn bản và đường lối hoạt động chính đáng của mình.
Như
thế, hoạt động nhân đạo, tuy còn thiếu
sót trong điều hành vẫn là hoạt động không thể thiếu trong xã hội loài người vì
tính khẩn thiết và ý nghiã sâu sa của nó. Bao lâu con người còn khổ đau, bao
lâu con người còn đối đầu với bất công, bạo lực, chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật;
bấy lâu hoạt động nhân đạo còn cần thiết và đáng mọi người cộng tác, tiếp tay xây
dựng.
“Nhìn
người lại nghĩ đến ta” để thấy đất nước ta hôm nay cũng còn là một nước nghèo.
Nhận
mình nghèo không có gì là tủi nhục hay xúc phạm phẩm giá. Nhận mình nghèo không
làm giảm giá trị, vị thế, tự hào của dân tộc, càng không xâm phạm “quốc hồn, quốc
túy”. Trái lại, hành động nhận mình nghèo nói lên nét hào hùng, trung trực,
lương thiện và nhân bản của mình. Không ai khinh người chân thật, chính trực;
người ta chỉ khinh những phường gian dối, điêu ngoa, phét lác.
Đất
nước nghèo là một hiện trạng, một hiện trạng được coi như hậu qủa của nhiều
nguyên nhân : nhiều năm chiến tranh, tái thiết hậu chiến, khủng hoảng kinh tế, cộng thêm những tiêu cực
chưa khắc phục như tham nhũng, bệnh thành tích, óc cục bộ, trục lợi...
Đất
nước nghèo khi tỷ lệ trung lưu và thượng lưu chỉ chiếm 8% dân số, còn lại 92% dân nghèo. Tỷ lệ quá chênh lệch ít nhiều
phải làm chúng ta nhức đầu, băn khoăn, thắc mắc.
Đất
nước nghèo là điều đáng buồn, nhưng không đáng phải nản lòng, nhụt chí. Tình trạng
nghèo của người dân là thách đố đối với những người có tấm lòng. Không có gì là quá khó và bất khả
thi, nếu có một tấm lòng. Với niềm tin vào tương lai và nỗ lực ở hiện tại, một
ngày không xa, đất nước sẽ giầu mạnh và mọi người sẽ thoát khỏi cảnh nghèo. Tôi
dám tin như vậy khi viết những giòng này.
Nhiều
kiểu nghèo, nhiều cảnh nghèo
1.
Nghèo
Tiền Của:
Thường
người ta chỉ chú ý đến cái nghèo vật chất:
không của ăn, không nhà ở. Nghèo vật chất, vì dễ thấy, nên dễ lôi kéo chú ý của đám đông. Nhìn người ăn xin,
ta biết họ nghèo, vì nghèo không có gì ăn nên mới nhục nhằn đi ăn xin. Thấy em
bé đánh giầy, bán vé số, ta biết em nghèo. Nghèo nên mới lang thang đầu đường
xó chợ kiếm sống qua ngày. Nhìn những người co quắp ngủ bên vệ đường, ta biết họ
nghèo, vì không ai cho ở, không tiền thuê nhà, mướn khách sạn.
Như
đã trình bầy ở những giòng trên: có nhiều thứ nghèo, nhưng tựu trung vào 3 thứ
nghèo căn bản : nghèo vì không của ăn, nhà ở, nghèo vì không được săn sóc chữa trị
khi đau ốm, nghèo vì không được học hành, đào tạo. Cả ba thứ nghèo dính dáng, ảnh
hưởng, có họ hàng với nhau, nên lôi kéo, chằng chéo, đánh đu với nhau rất “kỳ cục”:
không có tiền ăn làm sao đi học; không đi học làm sao đi làm có tiền; không đi
làm có tiền lấy đâu trả tiền bệnh viện ? Vì thế đã nghèo một là nghèo luôn ba;
lỡ nghèo một thứ là dễ nghèo luôn những thứ còn lại, khác gì bệnh ung thư : đã
di căn rồi thì chỗ nào cũng đau, bộ phận nào cũng tanh bành, nát bấy.
Nhưng
nghèo vật chất là cái nghèo thường đi tiên phong và có sức mạnh tàn phá hơn cả. Nó tàn phá vì của ăn, thức uống, áo mặc
là những nhu cầu căn bản, tối thiểu để sinh tồn. Thiếu học có thể sống 50, 70
năm; nhưng thiếu ăn, thiếu uống làm sao sống được nhiều tháng, nhiều tuần ?
Những
nạn đói khủng khiếp trên thế giới như ở
Biafra đã tiêu diệt trong vài tuần lễ
hàng triệu người. Nạn đói năm 1945 tại Việt Nam với 1 triệu đồng bào chết đã cực
tả sức mạnh tàn phá của cái nghèo “ăn uống”. Chưa đủ, nghèo vật chất, vì dễ thấy,
dễ nhận ra khi cảnh đói khát, rách rưới như đập vào mắt mọi người đã thường làm
xụp đổ nhanh chóng nhân cách, làm tổn thương trầm trọng danh dự gia đình và kéo
đổ không tiếc thương vị thế xã hội của người lâm cảnh nghèo vật chất. Người ta
sống nhiều dưới cái nhìn của người khác và tư cách của cá nhân luôn lệ thuộc
con mắt của tha nhân, nên khi nghèo, người nghèo bị hạ giá, bị người khác bán rẻ,
hay ít nhất chính người nghèo không chịu nổi cái nhìn của người khác vì “ảo tưởng
sĩ diện” và mặc cảm sẵn có nơi mình. Cái khổ và nỗi đau của người nghèo là thấy
mình không còn được là mình dưới cái nhìn của tha nhân và trong chính phản tỉnh
của mình. Sự sụp đổ nhân cách, danh dự gia đình và vị thế xã hội là nguy cơ thường
gặp nơi những thân phận nghèo vật chất. Một khi rơi vào tình thế nguy hiểm này
rồi thì ý chí vơi cạn, ước mơ tiêu tan, nhường chỗ cho sầu đời, tủi phận.
2.
Nghèo
sức khoẻ.
“Sinh,
Lão, Bệnh, Tử”. Nhà Phật nêu ra 4 cái khổ của kiếp người, trong đó có Bệnh Tật.
Có thời giờ, mời bạn đi thăm các bệnh viện ở thành phố Saìgòn vào sáng sớm để
thấy cảnh quá tải của các bệnh viện. Bệnh nhân xếp những hàng dài, thật dài hoặc
đứng ngồi la liệt khắp nơi chờ lấy vé, được gọi tên khám bệnh. Có những người bệnh
chờ chực từ 3 giờ sáng với hy vọng được khám trong ngày. Có những người bệnh đến
từ những tỉnh miền Tây, miền Trung xa xôi. Họ thực sự đang giành giật sự sống với
bệnh tật, dù khả năng vật chất vô cùng giới hạn.
Đi
thăm các em bé bị ung thư, tôi không thể tưởng tượng các em có thể sống được
trong những căn phòng chật chội, đông
đúc, ngột ngạt và thiếu vệ sinh như vậy. Nhưng rồi tôi cũng phải hiểu khi nhận
ra đất nước còn nghèo và người nghèo vẫn còn chiếm đa số.
Nghèo
sức khoẻ có thể là mối nguy cơ không nhỏ của đất nước hôm nay. Nghèo sức khoẻ
là hậu qủa tất yếu của nghèo vật chất. Thiếu ăn thiếu mặc hoặc ăn uống bừa bãi,
bữa đói bữa no, chưa kể thực phẩm ngày càng bị ô nhiễm, pha trộn hoá chất độc hại
đã là nguyên nhân làm nghèo sức khoẻ của người dân.
Có
bao nhiêu người bệnh đã đến được bệnh viện? Và còn bao nhiêu người đã không có
phương tiện vật chất để được kiểm tra sức khoẻ một lần trong đời? Với những người nghèo này, đau bệnh là tận số
nên chỉ còn biết đổ lỗi cho số phận và cắn răng ngậm ngùi chờ được cái chết gọi
đi.
3.
Nghèo
kiến thức.
Con
người có nhu cầu biết, vì con người có trí khôn và khả năng làm chủ vận mệnh của
mình qua ý thức và hành động làm chủ vũ trụ. Không biết hay không được biết là
một cảnh nghèo của kiếp người bên cạnh cảnh nghèo vật chất và nghèo sức khoẻ.
Để
biết, con người phải được học. Để có khả năng làm chủ vận mệnh đời mình, con
người phải có kiến thức về đời người, người đời và xã hội trong đó con người sống.
Để thành công trong đời, con người phải được học những kỹ thuật điều hành sinh
hoạt cộng đồng nhân loại, nắm bắt những phát minh khoa học như chià khoá để đi
vào thành công. Thiếu học, con người không thể theo kịp trào lưu tiến hoá và không thể đáp ứng những đòi hỏi của một thế
giới ngày càng tiến nhanh với tốc độ chóng mặt. Học giúp con người lý luận đúng. Học giúp con
người nhận định chính xác. Học giúp con người đón nhận chân lý một cách lương
thiện. Học giúp con người hành xử nhân đạo,
nhân ái. Học giúp con người sáng suốt chọn lựa. Học giúp con người sống đúng
nhân vị, có nhân cách và nhân bản.
Vì
thế không được học, không được giáo dục đào tạo, con người sẽ mất dáng đứng
“người “ như phải có, vì bên cạnh những nhu cầu thể lý, con người còn nhu cầu
trí thức, nhu cầu tinh thần cũng quan trọng và thiết yếu không kém. Cố tình lấy
đi quyền được học hành là vi phạm nhân quyền; đồng thời tiếp tay làm cho nhân
loại nghèo nàn, khốn khổ, bần cùng hơn.
Và
từ nay, danh từ “người nghèo” sẽ được người viết dùng để chỉ chung: người nghèo
vật chất, người bệnh không được chăm sóc, người thất học không được đến trường.