Tìm kiếm Blog này

Thứ Sáu, 12 tháng 4, 2019

Thứ Năm TUẦN THÁNH

                                ĐỨC GIÊSU VÀ  ĂN UỐNG
   Không vị giáo chủ nào, cũng không thiên chúa nào lại bị người đời trách móc về chuyện ăn uống như Đức Giêsu. Cả ba Tin Mừng Mátthêu 9,10-13, Máccô 2,15-17 và Luca 5, 29-32 đều tường thuật về chuyện Ngài bị những người Pharisiêu phê bình, sửa lưng vì chung bàn với người tội lỗi :
 Đức Giêsu đi ngang qua trạm thu thuế, thì thấy một người tên là Mátthêu đang ngồi tại trạm. Người bảo ông : Anh hãy theo tôi ! Ông đứng dậy đi theo Người. Khi Đức Giêsu đang dùng bữa tại nhà ông ấy, có nhiều người thu thuế và tội lỗi kéo đến, cùng ăn với Người và các môn đệ. Thấy vậy, những người Pharisêu nói với các môn đệ Người rằng : Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy ? Nghe thấy thế, Đức Giêsu nói : Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này : Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi (Mt 9,9-13).
Qủa thực, có nhiều tôn giáo cũng tôn thờ Thiên Chúa, nhưng những thiên chúa ấy không làm người, như Đức Giêsu, Thiên Chúa của Kitô giáo, nên không có chuyện thiên chúa chung bàn, dùng bữa với  phàm nhân, nói chi đến chuyện ăn uống với quân tội lỗi như người Pharisêu đã lên tiếng trách móc Đức Giêsu trong Tin Mừng.
  Nhưng ở Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người, chúng ta thấy Ngài đã có nhu cầu ăn uống của con người, ăn uống như loài người, ăn uống với mọi người, và chuyện ăn uống đã chiếm một chỗ quan trọng trong suốt năm tháng dong duổi truyền giáo của Ngài.
1.   Đức Giêsu có nhu cầu ăn uống :
  Là Thiên Chúa, nhưng không phải thiên chúa vô hình, thiêng liêng, mà là Thiên Chúa làm người có da thịt,  vóc dáng, hình hài, có giọng nói, tiếng cười, có tình cảm buồn vui, thương nhớ, hạnh phúc, cô đơn. Cũng vì là Thiên Chúa làm người như con người, Thiên Chúa ấy cũng biết đói, biết khát và cần ăn uống để sống và làm việc như bất cứ con người nào.
   Người ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, và sau đó, Người thấy đói (Mt 4,2). Vì thấy Đức Giêsu đói, nên ma quỷ mới đến gần và cám dỗ Ngài : Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá thành bánh đi ! (Mt 4,3).
     Trên thánh giá,  Đức Giêsu thì thào Tôi khát !. Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người. Nhắp xong, Đức Giêsu nói : Thế là đã hoàn tất ! Rồi Người gục đầu xuống và trút linh hồn (Ga 19,28-30).   
2.   Đức Giêsu thương những người đói khát, thiếu thốn lương thực hằng ngày và lo cho họ ăn uống :
  Kinh nghiệm đói khát của những người ở tù, hay đi lạc trong rừng lâu ngày làm chúng ta nổi da gà khi nghe kể. Nhưng còn khủng khiếp, rợn rùng hơn khi nghe  những người vượt biên sống sót kể cơn đói khát, khi tầu gẫy bánh lái, hết dầu, giạt trôi vào hoang đảo chỉ có cát, mà không có bất cứ thứ gì có thể nhai, hay uống được. Và họ đã phải ăn thịt nhau : người sống ăn thịt người đã chết để sống còn.              
  Hơn ai hết, Đức Giêsu hiểu cái khổ của đói, biết cái đau của  khát, và trong đau khổ của đói khát luôn kèm theo cái tủi nhục của người nghèo, thiếu ăn, nên Ngài rất thương những ai lâm cảnh đói khát :
Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Philípphê : Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ? (Ga 6,5). Câu hỏi đầy quan tâm, ăm ắp thương yêu đám đông đi theo và nghe Ngài giảng dạy đang đói khát dưới cái nắng thiêu đốt, cháy bỏng.
 Tin Mừng Mátthêu và Máccô ghi lại đầy đủ lòng cảm thương của Đức Giêsu trước đám đông đang đói khát : Đức Giêsu gọi các môn đệ lại mà nói : Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở với Thầy đã ba ngày rồi và họ không có gì ăn. Thầy không muốn giải tán họ, sợ rằng họ bị xỉu dọc đường (Mt 15,32 ; Mc 8,1-4).
 Và với năm chiếc bánh, hai con cá, Đức Giêsu đã hoá bánh ra nhiều cho cả đám đông ăn no nê, còn dư mười hai thúng đầy. Số người ăn có đến năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà, trẻ em (x. Ga 6,9-14).
Trong Hiến Chương Nước Trời, Đức Giêsu đặt người nghèo khó lên hàng đầu và công bố Nước Trời là của họ (Mt 5,1).  Hơn nữa, Ngài còn tự đồng hoá mình với người đói khát khi nói với kẻ dữ : Vì xưa Ta đói, ngươi đã không cho ăn, Ta khát, ngươi đã không cho cho uống, và với người lành : Vì xưa Ta đói, ngươi đã cho ăn, Ta khát, ngươi đã cho uống, bởi mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy, và  mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy (Mt 25, 42.35.40.45).     
Thực vậy, Đức Giêsu biểu lộ tình thương đặc biệt với những người đói khát, thiếu ăn, thiếu uống, nên đến đâu Ngài cũng quan tâm đến chuyện ăn uống của người thân và những ai chung quanh Ngài, như khi hiện ra với các môn đệ bên bờ hồ Tibêria sau khi sống lại. Ngài nói với các ông : Này các chú, không có gì ăn ư ? (Ga 21, 5), vì biết các ông đang đói, bởi các ông đã thả lưới suốt đêm, mà không bắt đuợc con cá nào (x. Ga 21,3). Rồi Ngài bảo các ông : Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá. Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá (Ga 21,6) … Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. Đức Giêsu bảo các ông : Đem ít cá mới bắt được tới đây ! Ông Simôn Phêrô lên bờ rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà không bị rách. Đức Giêsu nói : Anh em đến mà ăn ! Không ai trong các môn đệ dám hỏi Ông là ai ?, vì các ông biết rằng đó là Chúa (Ga 21, 9-12).
Đọc kỹ trình thuật, chúng ta thấy không những Đức Giêsu quan tâm đến chuyện đói của các môn đệ khi bảo các ông thả lưới bên phải mạn thuyền, mà còn đích thân dọn sẵn trên bờ bánh và than để nướng cá. Thật không còn gì ân cần và yêu thương hơn !
3.    Đức Giêsu ăn uống với mọi người, không từ chối đồng bàn với ai để tỏ lòng trân trọng, và thương xót:
Những người Pharisêu trách Đức Giêsu là đúng, bởi không ai có thể tin được một Ngôn Sứ cao cả như Ngài lại đến ăn uống với bọn thu thuế gian tham, bóc lột, đồng bàn với đám tội lỗi nhiều tai tiếng, như đã đến nhà ông Lêvi (x. Lc 5,27 -32), rồi Dakêu là trưởng phòng thuế vụ, người bị mang tiếng làm giầu bằng tham ô, hối lộ (x. Lc 19, 1-10) ; Ngài còn ăn uống ở nhà ông Simôn Cùi ở làng Bêtania và để người phụ nữ xức dầu thơm (x.Mt 26,6-13), hoặc ở tiệc cưới làng Cana, ở đó ngài đã làm phép lạ cho nước hoá thành rượu ngon (x. Ga 2,1-11).
  Qủa thực, Đức Giêsu đã bị những người đương thời với Ngài kịch liệt chống đối nhiều chuyện, trong đó có chuyện ăn uống, đến nỗi chính Ngài phải thốt lên :
 Tôi phải ví thế hệ này với ai ? Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi lũ trẻ khác và nói : Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa ; tụi tôi hát bài đưa đám, mà các anh không đấm ngực khóc than. Thật vậy, ông Gioan đến không ăn, không uống, thì thiên hạ bảo : Ông ta bị quỷ ám. Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì thiên hạ lại bảo : Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi (Mt 11,16-19).
  Nhưng họ đã trách Đức Giêsu cách bất công vì không biết Ngài muốn gì, tìm gì khi ăn uống với mọi người, kể cả những người bị xã hội tẩy chay, cô lập, lên án.
 Ăn uống với mọi người, Đức Giêsu muốn ở giữa chúng ta, như chủ chiên ở giữa đoàn chiên, như chủ chiên biết rõ từng con chiên và mang lấy mùi của chúng, vì Ngài là Mục Tử nhân lành, hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên (Ga 10, 14-15), để  cho chiên được sống và sống dồi dào (Ga 10,10).
  Ăn uống với mọi người, Đức Giêsu muốn có mặt trong mọi cảnh huống của con người, để chia sẻ tâm sự buồn thương, nâng đỡ yếu đuối, thất vọng và ủi an, ban niềm hy vọng như đã ở lại dùng bữa tối với hai môn đệ trên đường Emmau khi trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn (x. Lc 24,28-31)  
 Ăn uống với người tội lỗi, Ngài muốn lòng nhân từ, bao dung, thương xót, vì Ngài đến không để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi » (Mt 9,13) ; Ngài đến đồng bàn với tội nhân để mang đến ơn Cứu Độ, vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất (Lc 19,10).
 Ăn uống với mọi người, Đức Giêsu muốn có mặt để giải quyết những bế tắc, cho niềm vui của mọi người được tron vẹn, và hạnh phúc được nhân rộng, đồng thời tỏ cho mọi người chính Ngài mới thực là Đấng bảo đảm cho niềm vui được bền vững, bất diệt như ở tiệc cưới làng Cana, ở đó Ngài đã cứu đôi tân hôn, và hai họ khỏi mất mặt vì hết rượu giữa tiệc (x. Lc 2,1-11).
4.   Đức Giêsu nhận mình là lương thực đời đời để không ai phải đói khát :
      Thương xót người đói khát, Đức Giêsu nhận mình là lương thực để không ai phải đói khát : Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống ! Như Kinh Thánh đã nói : Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống (Ga 7,37-38) ; cũng như với người đàn bà xứ Samaria, Đức Giêsu đã cho chị biết : Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị : ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống, vì ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời (Ga 4,10.14).
      Là nước hằng sống cho đời khỏi khát, Đức Giêsu còn qủa quyết : Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói (Ga 6,35), Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.
5.   Mầu Nhiệm Thánh Thể : Thiên Chúa trở thành Của Ăn, Của Uống và ở lại với nhân loại cho đến tận thế :   
  Câu chuyện ăn uống, và trở nên lương thực đời đời cho mọi người của Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người đã không dừng lại ở cuộc tranh luận sôi nổi giữa người Do Thái với nhau quanh đề tài : Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt, và uống máu ông ta được ?
  Qủa thực không gì sốc bằng chuyện ăn thịt người và uống máu người. Man rợ và kinh tởm qúa ! Thế mà Đức Giêsu lại khẳng định : Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy (Ga 6,54-56). Cũng vì qúa sốc mà các môn đệ của Người liền nói : Lời này chướng tai quá ! Ai mà nghe nổi ? (Ga 6,60).
   Và đúng như lời Ngài nói, trước khi lên Giêrusalem dịp lễ Vượt Qua để đi vào cuộc khổ nạn, Đức Giêsu đã đi đến cùng chương trình yêu thương, và cứu độ của Ngài bằng một sáng kiến cực kỳ độc đáo, mà loài người không thể nghĩ ra, cũng chẳng hiểu nổi.
   Khi giờ đã đến, Đức Giêsu vào bàn cùng với các Tông Đồ. Người nói với các ông : Thầy khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình. Bởi vì, Thầy nói cho anh em hay, Thầy sẽ không bao giờ ăn lễ Vượt Qua này nữa, cho đến khi lễ này được nên tron vẹn trong Nước Thiên Chúa (Lc 22,14-16).
 Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói : Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy. Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói : Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em (Lc 22,19-20).
       
Thật bất ngờ trong bữa ăn cuối cùng trước khi lên đường đi chịu chết, Đức Giêsu đã chọn bánh, rượu là lương thực quen thuộc hằng ngày nuôi thân xác con người để làm thành chính máu thịt mình hầu nuôi sống linh hồn mọi người. Qua sáng kiến vô cùng kỳ diệu của bí tích Thánh Thể, Đức Giêsu đã mặc khải cho chúng ta :
a.   Linh hồn cũng đói khát và cần được ăn, uống để sống như thân xác.
b.  Nếu bánh, rựợu, và các lương thực vật chất khác nuôi được thân xác, thì chỉ Thịt và Máu Thiên Chúa mới nuôi được linh hồn con người như Đức Giêsu đã tuyên bố : Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuốngt. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống (Ga 6,48-51).
c.    Thiên Chúa làm người vì yêu thương con người đến cùng sẽ ở lại với con người cho đến tận thế một cách sống động, thiết thực bằng trở nên Thịt và Máu trong bánh, rượu được linh mục truyền phép trong thánh lễ.
      Qủa thực, đã không có thiên chúa của bất cứ tôn giáo nào đã yêu con người, gần con người, hiểu con người, sống như con người, tự nguyện trở nên giống con người trong mọi sự, trừ tội lỗi, như Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta.  
   Vì làm người như con người, có nhu cầu của con người như mọi người, mà Đức Giêsu đã ăn uống như mọi người, hiểu giá trị của lương thực, tính gần gũi, quen thuộc, cần thiết của ăn uống. Ngài biết rất rõ : thiếu ăn, thiếu uống, con người không thể tồn tại, và người đói khát là người bất hạnh, đáng thương nhất, vì không hình phạt nào dã man, phi nhân, làm con người đau đớn, dễ mất nhân cách hơn là bắt phải đói khát. Vì thế, Ngài luôn tỏ ra thương người đói khát và quan tâm đặc biệt đến chuyện ăn uống, lương thực cho các môn đệ và đám đông đi theo Ngài.
     làm người như chúng ta, Đức Giêsu Thiên Chúa  đã  trở nên nhịp cầu  trung gian giữa Thiên Chúa và con người, gạch nối giữa con người và Thiên Chúa, điểm gặp của thế gian và thiên đàng. Do đó, chỉ mình Ngài mới có thể biến bánh rượu là lương thực trần gian để nuôi thân xác  thành Thịt Máu của Thiên Chúa, bánh  các thiên thần, lương thực thần linh để nuôi sống linh hồn; chỉ mình Ngài là Thiên Chúa làm người muốn con người được sống sự sống của Thiên Chúa mới làm cho lương thực của thế giới này thành lương thực từ Trời, của ăn bình thường do con người làm ra để nuôi xác biến thành của ăn thiêng liêng được ban bởi Thiên Chúa để nuôi hồn; chỉ mình Ngài là Thiên Chúa làm người gần gũi con người mới làm cho bánh, rượu trên bàn ăn mỗi ngày của phàm nhân thành Thịt Máu của Thiên Chúa trên bàn ăn đời đời ; chỉ mình Ngài là Thiên Chúa làm người giầu lòng thương xót đã yêu thương và  chung bàn với mọi người, kể cả tội nhân với những tội tầy đình mới làm cho của ăn vật chất hay hư nát biến thành Lương Thực thần linh ban ơn cứu độ, cải tử hoàn sinh ; chỉ mình Ngài là Thiên Chúa làm người từ bi, nhân hậu mới có thể trở thành Thịt Máu ban sự sống đời đời cho con người qua tấm bánh, ly rượu ; và chỉ mình Ngài, Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người mới  ăn thức ăn của con người, uống  đồ uống của con người để con người được ăn thịt Thiên Chúa, uống máu Thiên Chúa, hầu được sống chính sự sống của Thiên Chúa, như thánh Phaolô đã viết : Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà chính Đức Kitô sống trong tôi (Gl 2,20).
   Như thế, câu chuyện ăn uống của Đức Giêsu không còn là chuyện nhỏ, nhưng đã trở thành chuyện lớn trong mầu nhiệm nhập thế, nhập thể của Ngài, bởi Ngài đã không chỉ cho nhu cầu ăn uống của con người ý nghiã, và giá trị nhân bản, mà còn cho nó ý nghiã và giá trị thiêng liêng, thần diệu, khi dùng chính lương thực hằng ngày, rất quen thuộc của con người để lập bí tích Thánh Thể, ở đó bánh rượu được làm ra do lao công của con người được biến thành Thịt Máu  của Thiên Chúa.      
Thực vậy, nhờ có Thiên Chúa làm người đã ăn uống, nên chuyện ăn uống không còn bị coi là phàm phu, tầm thường, nhưng là chuyện quan trọng của con người, chuyện liên quan đến Thiên Chúa, bởi Thiên Chúa đã tạo dựng con người có nhu cầu ăn uống, và Ngài đã ăn uống với con người, và cho con người được ăn uống chính  Máu Thịt Ngài, như thần lương  ban sự sống và hạnh phúc đời đời .
Và từ  bữa Tiệc Ly của tối thứ Năm tuần thánh năm ấy, chuyện ăn uống đã trở thành thiêng liêng, mầu nhiệm trong bí tích Thánh Thể, khi Đức Giêsu Thiên Chúa đã chọn bánh rượu là lương thực cần thiết, quen thuộc, và gần gũi con người để chính Ngài là Thiên Chúa được tiếp tục ở lại với con người cho đến tận thế, như Lương Thực Thiêng Liêng cần thiết, gần gũi, thân quen để linh hồn mỗi người được sống chính sự sống của Đức Giêsu, Thiên Chúa  làm người trong hạnh phúc đời đời của Ba Ngôi Thiên Chúa.
       Jorathe Nắng Tím