Tìm kiếm Blog này

Thứ Ba, 26 tháng 2, 2019

Mùa Chay - Mùa Cầu Bầu

Người tín hữu thường hay nhắn gửi: “Cầu nguyện cho tôi với”. Khi chia tay tạm biệt cũng không quên nhìn nhau căn dặn: “Nhớ nhau trong kinh nguyện nhé!” và cuối mỗi cánh thư vẫn dòng chữ quen thuộc: “Chúng mình cùng cầu nguyện cho nhau”. Làm như “cầu nguyện cho nhau” là cái gì cần thiết, cấp bách lắm… và cầu nguyện sẽ mang lại cho nhau nhiều điều tốt, sự lành.
“Các Thánh cùng hiệp thông” là tín điều trong giáo lý Công Giáo. Các Thánh đây gồm tất cả thần thánh trên Trời, các linh hồn trong luyện ngục và mọi tín hữu đang sống trên trần gian. Hiệp thông nói lên tình liên đới thắm thiết, tình cảm thông và tương quan hiểu biết giữa nhau. Hiệp thông là hiệp nhất và thông công: tất cả mọi thành phần gắn bó nên một và chia sẻ, hỗ tương, bổ túc, qua lại nâng đỡ nhau; vì tất cả thuộc về Đức Kitô là đầu Giáo Hội, tất cả ở trong cùng một Giáo Hội, tuy có khác nhau về tình trạng như các Thánh thuộc Giáo Hội chiến thắng, các linh hồn thuộc Giáo Hội thanh luyện, các tín hữu đang sống thuộc Giáo Hội lữ hành.
Cùng một Giáo Hội, cùng một Đức Tin, cùng một Phép Rửa, cùng một Thiên Chúa, tất cả cùng chung một tình yêu trong Đức Kitô. Chung một tình yêu là chung tất cả: chung niềm vui - nỗi buồn, chung thành công - thất bại, chung đau khổ - hân hoan, chung thử thách - chiến thắng, chung nhục nhằn - ủi an, chung nước mắt - tiếng cười, chung thao thức, chung hy vọng, chung phần thưởng, chung lời cầu. Tình hiệp thông trong Giáo Hội là giây liên kết, thắt chặt mọi người trong tình yêu Đức Kitô. Thiếu sợi giây hiệp thông quan trọng này, Giáo Hội mất tính hiệp thông và đi ngược lại điều Đức Kitô mong muốn. Và “cầu nguyện cho nhau” chính là bổn phận, vinh dự và hạnh phúc cho tất cả mọi thành phần của Giáo Hội. “Cầu nguyện cho nhau” là nét đẹp của tình huynh đệ giữa những người anh em, con cùng một Cha. “Cầu nguyện cho nhau” là biểu trưng của tình bác ái nơi những người đi theo Đức Kitô. Họ “cầu nguyện cho nhau” để tìm gặp và dắt nhau trên đường về, để nâng đỡ nhau đứng dậy cùng đi, để gánh bớt cho nhau gánh nặng, để sẻ chia, đỡ đần, an ủi, để yêu thương, che chở và nhất là để cầu bầu cho nhau trước mặt Chúa cho hạnh phúc đời đời của nhau. Dễ thương làm sao em bé chắp đôi tay bé nhỏ, mắt ngây thơ ngước nhìn lên Chúa đang nhắc lại từng lời cầu nguyện của Mẹ trước quan tài của bà ngoại. Em đang cầu bầu cùng Chúa cho bà ngoại của em được bớt hình phạt luyện ngục. Đẹp làm sao hình ảnh người Mẹ đau bệnh nằm liệt nhiều năm trên giường luôn tay lần chuỗi để cầu nguyện cho đàn con lưu lạc muôn phương được may lành. Thánh thiện làm sao đôi môi người vợ xa chồng mấp máy hàng đêm lời cầu xin cho chồng được bình an trước “hòn tên mũi đạn”. Cao cả làm sao đôi chân run rẩy của người cha già cố gắng đến tận nhà thờ để xin ơn trở về cho những đứa con tội lỗi. Tuyệt vời làm sao những giọt nước mắt long lanh trên mắt người tình trẻ trong nhà thờ vắng người nài xin hạnh phúc cho người mình yêu. Sống động làm sao những đầu gối khiêm tốn của các thầy dòng, nữ tu trong đan viện ngày đêm cầu nguyện cho tất cả mọi người. Yêu thương làm sao những ngón tay gầy guộc mân mê tràng hạt của cha xứ già trong toà giải tội để cầu xin ơn thứ tha cho hối nhân vừa nhận bí tích giao hoà. Và hạnh phúc biết bao khi biết mình luôn được nhiều người nhớ đến, cầu bầu.
Trong Cựu Ước, có rất nhiều trình thuật về tình hiệp thông trong cầu nguyện. Ápraham đã khẩn khoản Giavê Thiên Chúa tha phạt cho thành Sôđôm khi đánh liều “cò cưa mặc cả” với Chúa khi Chúa bảo: “Nếu tìm được năm mươi người lành thánh trong thành, Ta sẽ tha cho cả thành vì năm mươi người thánh thiện này” (St 18,26). Ápraham nài nỉ Chúa bớt xuống bốn mươi lăm người, rồi bốn mươi, rồi ba mươi, rồi hai mười, cho đến khi xuống đến mười người… Ông cũng không tìm được (St 18,27-33). Tuy vẫn đốt thành, nhưng Chúa tội nghiệp ông nên đã cứu gia đình ông Lót (St 19,29).
Môsê là người đã suốt đời “cầu thay nguyện giúp” cho dân. Không biết bao nhiêu lần ông đã phủ phục van xin Chúa tha tội cho dân vì nhiều lần Thiên Chúa Giavê đã phải nói với ông: “Vì dân Ta chọn đã ra hư đốn. Chúng xa khỏi con đường Ta dạy mà đi thờ bò vàng do chúng đúc ra… Ta thấy dân này là một dân cứng đầu cứng cổ…, nên cơn thịnh nộ của ta sẽ đốt cháy chúng” (Xh 32,7-10). Môsê năn nỉ, làm dịu cơn giận của Chúa: “Lạy Chúa, sao Chúa nỡ thịnh nộ với dân Ngài, dân mà Chúa đã dẫn ra khỏi Ai Cập do bàn tay quyền năng của Chúa? Nếu Chúa tiêu diệt dân Ngài, con sợ bọn Ai Cập sẽ được dịp rêu rao với nhau: Đó, Chúa của chúng nó, bởi dã tâm đã đem chúng ra đi, để giết chúng nơi núi rừng và tận diệt chúng khỏi mặt đất. Xin Chúa hãy nhớ đến các tôi tớ trung thành của Chúa là Ápraham, Isaác và Giacob mà tha tội cho dân… Và Giavê đã rút lại quyết định trừng phạt dân của Ngài” (Xh 32,11-14). Lời nguyện xin, cầu bầu của Môsê đã cứu dân khỏi bị tiêu diệt cho thấy sức mạnh của việc “cầu thay nguyện giúp”. Lời nguyện cầu tha thiết của ông là lời ca ngợi những kỳ công do tình yêu và bàn tay quyền năng của Chúa, đồng thời xin Chúa nhớ lại những khuôn mặt tôi tớ trung thành của Chúa. Khi nhắc đến Ápraham, Iasaac, Giacob, Môsê đã cậy vào uy tín và ơn phúc của các tổ phụ, một cách nào đó, Môsê đã dùng tên các Ngài như một bảo đảm cho lời nguyện cầu của mình. Như thế, Môsê không chỉ cầu nguyện một mình với Giavê, không chỉ đơn độc năn nỉ Giavê, nhưng hiệp thông với cha ông, với cả giống nòi, dân tộc được chọn để cùng “cầu thay nguyện giúp” cho dân. Sức mạnh của lời cầu nguyện là sức mạnh của mầu nhiệm hiệp thông như chúng ta luôn cầu xin cùng toàn thể Giáo Hội và xin mọi sự “vì Đức Tin của Hội Thánh Chúa”. Trong Đức Tin của toàn thể Giáo Hội, lời cầu nguyện mang tầm vóc “lớn lao và toàn thể” của tất cả dân thánh Chúa và lời cầu ấy chắc chắn sẽ đẹp lòng Chúa hơn lời cầu riêng lẻ, đơn độc. Hiệp thông trong lời cầu là hiệp thông sức mạnh cầu bầu với Chúa, Đấng là Tình Yêu thông hiệp như Ba Ngôi đã hiệp thông trong nhau, như Đức Kitô đã hiệp thông với tất cả những người đi theo Ngài: “Thầy ở trong chúng con và ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế”.
Đức Maria là gương mẫu của cầu bầu và phép lạ hoá nước thành rượu trong tiệc cưới Cana là bằng chứng hùng hồn. Khi biết nhà đám thình lình hết rượu, Đức Maria đã kín đáo cầu bầu cùng Đức Giêsu cho nhà đám và xin Ngài làm phép lạ cứu đôi tân hôn ra khỏi thế bí hết rượu giữa buổi tiệc. Bởi tiệc cưới đang hồi “cao trào, dô dô bốc lửa” mà hết rượu thì ăn nói làm sao với quan khách? Nếu Đức Kitô không làm phép lạ theo lời xin của Mẹ Ngài cho sáu chum nước biến thành sáu chum rượu tuyệt ngon thì đôi tân hôn sẽ phải thẹn thùng, bẽ bàng biết bao. Và như chúng ta biết, lời cầu bầu của Đức Mẹ đã cứu gia đình mới và ban cho họ niềm vui, hạnh phúc tràn đầy (Ga 2,1-12).
Đức Kitô cũng tỏ cho ta thấy sức mạnh của “cầu thay nguyện giúp” của người sống dành cho người đã qua đời. Người chết rất cần lời cầu của người sống, vì khi chết rồi, con người không còn cơ hội lập công đền tội nữa, mà chỉ còn trông mong vào người còn sống thương xót cầu bầu cho. Khi nghe tin Lazarô chết, Đức Kitô ghé chia buồn. Ngài không có ý làm phép lạ cho Lazarô sống lại, nhưng trước lời nài van, năn nỉ của Matta và Maria là hai chị của ông với Đức Kitô: “Lạy Thầy, nếu Thầy ở đây thì em con không chết, nhưng bây giờ vẫn còn kịp, vì con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa thì Thiên Chúa cũng ban cho Thầy” (Ga 11,21-32), Đức Kitô đã cho ông sống lại mặc dù đã chết bốn ngày và xác đã nặng mùi. Cho Lazarô sống lại vì Matta và Maria khẩn khoản nài xin, Đức Kitô đã mạc khải chân lý hiệp thông giữa các tín hữu đã ly trần và những người còn sống. Người chết được hưởng trọn vẹn những lời “cầu thay nguyện giúp” của người sống và vì lời cầu nguyện hiệp thông, chia sẻ, cầu bầu này, linh hồn người đã chết được hạnh phúc trong Nước hằng sống. Lazarô đã được sống lại nhờ lời cầu bầu của hai chị là hình ảnh của các linh hồn được hưởng sự sống đời đời nhờ lời cầu của chúng ta.
Nhưng đôi khi vì ích kỷ, ta như Giôna thay vì vui mừng, cảm tạ, đã trách móc, giận dỗi Chúa vì Chúa đã tha thứ cho thành Ninivê (Gn 4,1-4). Không thiếu những lần trái tim ta nhỏ bé, hẹp hòi và còn vương vấn hận thù, ghen ghét đã từ chối không cầu nguyện cho những người ta không ưa, những người làm ta buồn lòng, hoặc thiệt hại vật chất. Tính tự nhiên bảo ta “vui khi họ buồn và buồn khi họ vui”, nên đã không cầu thay nguyện giúp cho những người này bao giờ. Ta đã quên một điều quan trọng trong đòi hỏi của Đức Ái, đó là “cầu nguyện cho kẻ ghét bỏ, bách hại chúng con”. Cầu bầu cho họ là việc làm đẹp lòng Chúa hơn cả vì đòi ở ta nhiều hy sinh, quảng đại, quên mình. Nhưng chính khi cầu nguyện cho những người này, ta học được nơi Chúa lòng xót thương vô bờ bến. Chính lòng thương xót ấy sẽ xót thương ta; chính lòng thương xót ấy sẽ là nơi ta náu thân, là niềm cậy trông vững chắc trong kinh hoàng, sợ hãi của giờ lâm tử. Thiên Chúa Giavê đã chỉ bảo cho Giôna cũng như đang nói với từng người chúng ta sau khi làm cho cây thầu dầu cho Giôna bóng mát thình lình chết héo: “Giôna, ngươi mủi lòng vì cây thầu dầu mà ngươi đã không tốn công trồng và làm cho nó lớn lên… Còn Ta, Ta không chạnh lòng sao được trước cả một kinh thành đông đúc, trong đó có hơn mười hai vạn người…!” (Gn 4,5-11).
Kinh nghiệm thiêng liêng cho thấy: khi cầu nguyện, chúng ta gặp được mọi người và chỉ trong cầu nguyện, ta mới thấy mình gần gũi, yêu thương mọi người, nhất là những người thân yêu, quen biết. Cuộc sống vội vã, chộp giật vì miếng ăn, manh áo, vì danh vọng, sự nghiệp, nên mấy ai nhớ đến ai, vì không có giờ, vì không có lợi… Chỉ những tâm hồn cầu nguyện, những con người cầu nguyện, những cuộc sống cầu nguyện mới thật sự yêu thương, gần gũi, giúp đỡ mọi người. Bởi trong cầu nguyện, ta gặp và cầu bầu cho những người đã chết, ta nhớ và cầu xin cho những người đang sống, ta chiêm ngắm và xin các Thánh trên Trời “cầu thay nguyện giúp”. Trong cầu nguyện, ta hiệp thông với toàn thể Giáo Hội và nài xin mọi điều lành cho mọi người vì “Đức Tin của Giáo Hội”. Bằng lời và đời cầu nguyện, ta chia sẻ gánh nặng và chung niềm vui với người khác. Cũng với cầu nguyện, người khác xin ơn tha thứ, kéo ơn bình an xuống đời ta khi cầu bầu cùng Chúa cho ta.
Mùa Chay là Mùa cầu nguyện. Cầu nguyện là ca tụng lòng thương xót Chúa và tôn vinh danh thánh Ngài. Cầu nguyện là nhớ đến Giáo Hội và mọi thành phần trong Giáo Hội từ các Thánh đến các linh hồn, người đang sống. Nhớ và yêu thương. Nhớ và cầu thay nguyện giúp. Nhớ và chia sẻ vui buồn. Nhớ và kê vai đỡ bớt gánh nặng. Nhớ và tha thiết cầu bầu. Nhớ và hiệp thông, bác ái; bởi Đức Tin của Giáo Hội là Đức Tin hiệp thông trong Đức Kitô, không phải đức tin riêng lẻ, cá nhân, đơn độc; Đức Tin của toàn thể dân thánh được tuyển chọn; Đức Tin của đoàn lũ những người đi theo Đức Kitô, lắng nghe Ngài và ở với Ngài. Đức Tin ấy không bao giờ cằn cỗi vì được tháp nhập vào Đức Kitô như cành gắn liền cây. Đức Tin ấy không chơ vơ giữa trời mông quạnh hay lầm lũi một mình một bóng, nhưng là Đức Tin rộn rã, sống động, hợp quần, liên đới như đàn chiên hớn hở vui mừng cùng đi với nhau theo chân Chúa chiên đến đồng cỏ xanh, đến bờ suối mát. Chính vì thế, lời nguyện cầu trong Đức Tin của Hội thánh là lời nguyện cầu cộng đồng, hiệp thông để mọi thành phần dân Chúa đều được hưởng ơn phúc từ lời cầu. Giáo Hội là gia đình, là thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô nên lời cầu của mọi thành viên gia đình, lời nguyện của tất cả các chi thể đều ảnh hưởng đến nhau, nâng đỡ được nhau, cứu giúp được nhau. Có biết bao tâm hồn thánh thiện đêm ngày cầu nguyện cho ta mà ta không biết. Có biết bao nữ tu nhà kín đêm ngày khẩn khoản Thiên Chúa “tha nợ tha phạt” cho ta mà ta không hay. Có biết bao trái tim từng giây phút xin ơn bình an cho ta mà ta chẳng quan tâm, để ý. Có biết bao tấm lòng đang cầu xin ơn trở về cho ta mà ta hờ hững, coi thường. Và có biết bao người trong Giáo Hội sẽ nhớ đến ta khi ta xuôi tay trở về với đất mà ta không hề ý thức tình yêu và giá trị cứu rỗi họ sẽ dành cho ta.
Mùa Chay như một lần trở về, trở về gặp nhau trong cầu nguyện, trở về gặp lại những người đã quen biết, thương yêu, những người lâu rồi không gặp, những người chẳng bao giờ được gặp nhưng họ đang “cầu thay nguyện giúp” cho ta khi sống cũng như khi chết. Trở về gặp lại những người này là trở về nhà Giáo Hội, ở đó mọi người hiệp thông cầu nguyện và hiệp thông cầu nguyện cho nhau nhân danh Đức Kitô, Đấng đã phán: “Các con hãy yêu thương nhau” và tình yêu cao quý, lớn lao nhất chúng ta có thể dành cho nhau là nhớ đến nhau trong lời và đời cầu nguyện.

Mùa Chay - Mùa Bình An Cho Người Thiện Tâm

Đề tài nghe giống như tiếng hát thiên thần đêm Giáng Sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình An dưới thế cho người thiện tâm”. Không lẽ mình lạc đề Mùa Chay sang mùa sinh nhật? Không khí những ngày cuối cùng trước khi đi vào cuộc tử nạn ngày càng nặng nề, ngột ngạt vì những cuộc tranh luận giữa những người Biệt Phái thiếu thiện tâm và Đức Kitô, đích nhắm của thế lực đạo đời đang tìm tiêu diệt. Bầu khí rất căng thẳng khi những người Do Thái bị đám Biệt Phái thúc giục, giật giây đã công khai khủng bố Đức Kitô và nhóm môn đệ của Ngài bằng những màn khiêu khích, gây gổ, ném đá. Giáo huấn và những mạc khải về Thiên Chúa cũng như những phép lạ của Đức Kitô đã làm họ điên lên và như những giọt nước cuối cùng đã tràn ly, họ quyết tâm bắt Ngài trong dịp lễ Vượt Qua là lễ lớn của đạo Do Thái kỷ niệm ngày dân ra khỏi đất Ai Cập nô lệ.
Trong bầu khí căng thẳng của những ngày này, ta nhận ra dễ dàng diện mạo những người thiếu thiện tâm và qua thái độ, hành động của họ, ta khám phá bộ mặt thật của tâm địa ác độc, giả hình.
 Tin Mừng Mátthêu và Gioan đặc biệt vạch rõ bộ mặt thật này qua nhiều trình thuật được tỉ mỉ ghi chú, trình bày.
1.   Trước hết, người thiếu thiện tâm là người không tôn trọng sự thật. Sự thật rành rành xảy ra trước mắt, họ cũng không chấp nhận, nếu sự thực ấy không có lợi cho họ, không cùng lề phải, cùng hướng họ đi. Sự thực cho dù có được mọi người công nhận, họ cũng cối chầy phủ nhận, xuyên tạc, bóp méo, gạt phăng, giễu cợt. Câu chuyện Đức Kitô chữa người mù bẩm sinh đã chứng minh điều này (Ga 9,1-41). Người mù được Chúa chữa lành là một phép lạ tỏ tường trước mắt nhiều người quen biết anh và tất cả đều sửng sốt, trầm trồ thán phục. Anh mù được sáng mắt, sau khi đến hồ Siloê để rửa như lời dặn của Đức Kitô đã công khai tuyên xưng “Người làm cho tôi sáng mắt chính là ông Giêsu” (Ga 9,11). Đám đông thấy phép lạ thì tin ngay, nhưng đám Biệt Phái thiếu thiện tâm thì lắt léo gặng hỏi người mù được chữa lành, rồi cho gọi cha mẹ anh đến để hạch hỏi xem có thật anh là con ông bà, bị mù từ thuở mới sinh và tại sao bây giờ được sáng mắt (Ga 9,19-20). Họ thiếu thiện tâm nên không sự thật nào lọt vào được tâm địa gian ác của họ, vì sự thật không thể chung sống với ác tâm. Tuy cố tình chống lại sự thật, từ chối phép lạ Đức Kitô chữa anh mù, họ không thay đổi được xác tín rất mạnh mẽ, dứt khoát và kiên định của anh mù luôn miệng tuyên bố: “Tôi đã nói với các ông nhiều lần: chính ông Giêsuđã mở mắt cho tôi mà các ông không chịu tin” (Ga 9,27), phải chờ đến khi anh mù hỏi đểu: “Hay các ông muốn nghe tôi kể lại, vì các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy?” họ mới chịu yên, nhưng vì bị “chạm nọc” tự ái, nên họ điên cuồng chửi rủa anh không tiếc lời: “Mày mới là môn đệ ông ấy, còn chúng tao là môn đệ Môsê...”, “Mày là đứa sinh ra hoàn toàn trong tội mà dám lên lớp, dạy bảo chúng tao à?” và họ đuổi anh ra ngoài cho khuất mắt họ (Ga 9,27-28.34).
2. Không áp chế được sự thật và không bịt miệng được người công bố sự thật, những người mang tâm địa xấu như mấy ông Biệt Phái quay ra bới lông tìm vết. Biết không làm gì được trước lòng tin và ngưỡng mộ của dân chúng khi Đức Kitô chữa người tê bại ở hồ Bêzatha, gần Cửa Chiên của đền thờ Giêrusalem (Ga 5,1-16), họ quay sang tấn công người tê bại được chữa lành đang vác chõng đi: “Anh này, anh không được vác chõng như thế, vì hôm nay là ngày thứ bảy”. Ngày thứ bảy là ngày nghỉ việc, nhưng mắc mớ gì đến chuyện vác chõng về nhà sau ba mươi tám năm nằm chết gí một chỗ, nay mới được chữa lành. Thử tưởng tượng niềm vui chất ngất của một người bất toại không đi đứng nhưng nằm bất động ba mươi tám năm nay đứng được, đi được, chạy nhảy được. Thế mà niềm vui của ông đã không được chia sẻ, nhưng đã bị những người có tâm địa xấu rình rập muốn cướp đi. Không ngăn chặn được sự thật một phép lạ lớn vừa xảy ra, họ tìm cớ kết tội anh đã không giữ luật ngày Sabát mà chẳng thèm quan tâm đến bệnh tật đã kìm kẹp, buộc trói anh nằm yên một chỗ gần nửa cuộc đời. Ác tâm đã không đón nhận sự thật, cũng như không có chỗ cho cảm thông, yêu thương. Không thiện tâm, trái tim họ “không vui được với ai mừng vui và không khóc được với ai đang khổ sầu” vì trái tim ấy cằn cỗi, khô khan, đầy kín mưu mô, ác độc. Họ rất giỏi bắt bẻ những sơ hở cỏn con như hạch sách Chúa: “Tại sao các môn đệ của ông không giữ tập tục của cha ông khi không rửa tay trước khi ăn” (Mt 15,2). Rửa tay trước khi ăn chỉ là một tập tục không quan trọng, nhưng với ác ý, ác tâm gài bẫy Đức Kitô, họ đã đem chuyện nhỏ ra bắt bẻ. Vì thế mà họ đã bị Đức Kitô kết án là đồ giả hình “chỉ thờ kính Thiên Chúa bằng môi miệng, còn lòng chúng thì quá xa xôi” (Mt 15,8). Và cứ thế, với tâm địa không ngay lành, họ tìm mọi sơ hở để bắt bẻ Đức Kitô và các môn đệ.
3.   Bới lông tìm vết không xong, bắt bẻ không đạt, họ quay sang thủ đoạn xuyên tạc, gièm pha, chụp mũ, giễu cợt. “Không ăn uống như Gioan Tẩy Giả thì họ bảo bị quỷ ám. Đức Kitô đến, ăn uống như mọi người thì họ bảo: Đó là một tên mê ăn, bợm nhậu, chuyên la cà làm bạn với những người thu thuế và tội lỗi” (Mt 11,18-19). Trừ quỷ cho người bị quỷ ám, thay vì nhận đó là phép lạ và tình trạng được chữa lành của người bị quỷ ám, những người Biệt Phái thiếu thiện tâm đã thẳng thừng chụp mũ : “Ông này đã nhờ phép tướng quỷ mà trừ quỷ” (Mt 12,24). Bị Đức Kitô kê lại: “Nếu quỷ lại trừ quỷ thì chúng chia rẽ nhau, nước chúng bền vững thế nào được? Vả lại, nếu ta nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ, thì con cháu các ông sẽ nhờ ai mà trừ?” (Mt 12,26-27). Cứ ra trận nào là thua trận ấy, xuất chiêu nào là chiêu ấy bị “nốc ao - knock out” thế mà vẫn chưa chịu yên, cứ hừng hực xiên xỏ vì tâm can rực lửa ác độc, ngập đầy ý nghĩ xấu xa. Đức Kitô muốn họ khiêm tốn nhìn lại tâm địa thiếu ngay lành, chính trực của họ để cuộc đời họ được đổi mới, nhưng xem ra đâu cũng hoàn đấy và cho đến giờ Đức Kitô bị đóng đinh hấp hối trên Thánh Giá, họ cũng vẫn giễu cợt, ngạo mạn, thách thức: “Nếu nó đã cứu được kẻ khác, sao không cứu được mình. Nếu nó là vua dân Do Thái, thì hãy xuống khỏi thập giá đi, có thế chúng ta mới tin. Nó trông cậy vào Thiên Chúa. Vậy nếu Thiên Chúa yêu nó thì hãy cứu nó đi vì nó đã tự xưng là Con Thiên Chúa” (Mt 28,41-43). Tâm địa cực kỳ ác độc đã không buông tha cả người đang quằn quại hấp hối trên thập tự!
4.   Đòn độc tiếp theo của những người lòng dạ không ngay chính là chia rẽ, xúi bẩy, ném đá giấu tay. Họ rất sợ người khác đoàn kết, vì đám đông đoàn kết là họ chết, hết đâm thọc. Càng chia nhỏ đám đông, càng dễ khuynh đảo quần chúng, dư luận. Xúi người khác làm bậy, thúc người khác làm điều gian ác cũng là nghề ruột của họ, vì tâm địa gian ác chỉ tìm những điều gian ác. Đức Kitô đã ngao ngán thốt lên: “Bao nhiêu lần, ta muốn tập hợp con cái, như gà mẹ ấp ủ con dưới cánh mà các ngươi chẳng muốn” (Mt 24,37). Trước mặt quan Philatô, những trưởng tế và kỳ lão ác tâm đã xúi dân xin tha Baraba và đòi giết Đức Giêsu, mặc dù Philatô đã nói rõ: Tôi không thấy người này có tội gì (Mt 27,23), cả vợ ông cũng mơ thấy điềm chẳng lành nếu chồng mình dính vào máu người vô tội này (Mt 27,19). Ném đá giấu tay và xúi bẩy dân đồng thanh đòi đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá, họ đã thành công trong mưu đồ triệt hạ Đức Kitô, người đã lật tẩy bộ mặt giả nhân giả nghĩa, tâm địa gian ác, ghen tương, kiêu ngạo của họ. Ván bài lật ngửa hoàn toàn khi Đức Kitô chỉ mặt gọi tên, kể tội họ: Hỡi bọn giả hình, phô trương, lười biếng, háo danh! Hỡi loài rắn độc, bóc lột, tham ô, mù quáng! Hỡi phường gian ác, bên ngoài tô son, bên trong hôi thối! Hỡi đám lưu manh, cướp cơm chim, trấn lột bà goá! Hỡi bọn công chính giả hiệu, bề ngoài như những mồ mả quét vôi trắng, nhưng bên trong hôi thối, dòi bọ! Hỡi đám côn đồ bàn tay vấy máu người vô tội! (Mt 23,1-39). Quả thực, Đức Kitô đã không từ bỏ một danh xưng tiêu cực, gớm ghiếc nào để gọi tên, điểm mặt những người tâm địa không ngay lành và ngoan cố giả hình này. Chiến tranh giữa Ngài và các ông Biệt Phái, Thượng tế bùng nổ dữ dội và kết thúc bằng việc Đức Kitô bị các ông âm mưu gài bắt và kết án tử hình đóng đinh. Với cái nhìn nhân loại, các ông là người chiến thắng và gian tà, ác độc đã đánh gục người thiện tâm, ngay chính, hiền lành là Đức Kitô, chiên Thiên Chúa, tôi tớ đau khổ, vâng lời của Giavê.
5.   Sau cùng là thái độ côn đồ khi bị đuối lí, mắc kẹt, hay bị “quê mặt” trước người khác. Không biết bao nhiêu lần họ đã ném đá Đức Kitô khi họ bị Ngài dồn vào thế bí, không trả lời được (Ga 8,59). Cái khổ của họ là hay “vạch lá tìm sâu”, nhưng sâu đâu không thấy, chỉ thấy họ bị “quê một cục”, mặt đỏ bừng như gấc, luống cuống, ngượng ngùng trước đám đông khi bị Đức Kitô đốp chát, quật lại. Sử dụng luật rừng ném đá khi thua lí là nét côn đồ ở những người Biệt Phái thiếu thiện tâm.
Ngoài kiểu chơi giang hồ, côn đồ này, họ còn sử dụng màn đe doạ, áp đảo tinh thần những người có thiện cảm hoặc bênh vực chân lý như trường hợp ông Nicôđêmô cũng ở trong nhóm họ khi ông này lên tiếng nhắc nhở: “Lề Luật của chúng ta không lên án ai khi chưa tra hỏi người ấy và chưa biết rõ việc họ làm” (Ga 7,50-51). Ông bất bình trước sự việc những đồng nghiệp thiếu thiện tâm đang moi móc, tìm cớ bắt cho bằng được Đức Kitô. Điên tiết trước lời nhắc nhở, họ quát mắng ông: “Cả anh nữa, anh cũng là người Galilê ư? Giở Kinh Thánh ra mà xem, anh sẽ thấy: chẳng có một tiên tri nào xuất hiện từ Galilê cả” (Ga 7,52).
Đề tài là “người thiện tâm” mà lại miên man với “người ác tâm” nên coi như đã lạc đề; nhưng trộm nghĩ khi những tiêu cực của ác tâm hiện hình, thì tích cực của thiện tâm cũng xuất hiện. Người ác tâm luôn bàn ra, gièm pha, xuyên tạc, bóp méo sự thật, chụp mũ chứng nhân, móc lò, phê phán, hạ uy tín, trấn áp, khủng bố, manh động côn đồ người không cùng chính kiến, không cùng lý tưởng, không đồng chí hướng. Mục đích của người có tâm địa xấu là cướp cơm chim, giành công trạng, khoe khoang, lợi dụng và hưởng thụ. Ngược lại, người thiện tâm tôn trọng, bảo vệ, yêu mến, sống chết cho sự thực; người thiện tâm nhìn sự việc dưới con mắt trong sáng, với ý nghĩ ngay lành, tích cực và luôn thiết tha xây dựng, giúp đỡ, che chở người khác. Người thiện tâm không tìm mình nên không kiêu căng, khoe khoang, tự mãn, không gian dối, mưu mô, nhưng hiền hoà, khiêm tốn, trung thực và luôn vì lợi ích chung của mọi người.
Đêm Giáng Sinh các Thiên Thần đã chúc an bình cho người thiện tâm. Đêm Mùa Chay, Đức Kitô cũng nhẹ nhàng nhắc nhở phải sống bằng thiện tâm. Thiện tâm là trái tim hiền lành, khiêm tốn; là trái tim khao khát công chính và rộng lượng xót thương; là trái tim trong sạch, yêu chuộng hoà bình; là trái tim nhạy bén dễ cảm thông, biết sẻ chia với người cùng khốn; là trái tim vui với ai mừng vui, khóc với ai đang sầu khổ; là trái tim nhìn thấy Thiên Chúa trong mọi người để yêu thương, tha thứ, phục vụ, hiến mình.
Mùa Chay cũng là mùa an bình khi tất cả rời bỏ xôn xao, trở về lắng đọng. Trong tĩnh lặng của thời gian, thanh vắng của không gian, Đức Kitô âu yếm thì thầm: “Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Các con hãy đi và sinh nhiều hoa trái, vì Thầy luôn ở với ai có tâm hồn ngay lành” (Ga 20,19).

Mùa Chay - Mùa Hoà Giải


Có lẽ danh từ được nói đến nhiều nhất, sứ mệnh khó khăn nhất, công tác vất vả nhất và nhu cầu cấp bách nhất chính là Hoà Giải. Con người ở bất cứ thời đại nào cũng cần hoà giải: hoà giải giữa vợ chồng, hoà giải giữa cha mẹ - con cái, hoà giải giữa ông bà - cháu chắt, hoà giải giữa những người cùng xóm, cùng làng, cùng sở, cùng tổ chức, hoà giải giữa các quốc gia, giữa khối này khối nọ, chưa kể nhu cầu hoà giải giữa mình với mình, giữa mình và Thiên Chúa. Hoà giải ở giữa sinh hoạt con người, cần thiết cho con người tồn tại và hạnh phúc. Hoà giải giúp con người ra khỏi những bế tắc trong tương quan, giải quyết những khúc mắc, đối kháng trong sinh hoạt. Hoà giải bảo đảm an bình cho tâm hồn, hạnh phúc cho gia đình, hoà bình cho thôn làng, thế giới. Hoà giải gắn liền mọi người của mọi tuổi tác, địa vị, hoàn cảnh: học sinh mẫu giáo cũng cần hoà giải như cha mẹ, ông bà, lãnh đạo quốc gia. Hoà giải thực thiết thân với cuộc sống con người, nhưng con người hoà giải được hay không và hoà giải đến mức độ nào. Đó là điều chúng ta cùng chia sẻ.

Hoà giải chỉ có ý nghĩa và tồn tại khi có bất công. Nếu xã hội, con người không bị đảo lộn, căng thẳng vì bất công, thì sự có mặt của hoà giải thật vô duyên vì không ai cần hoà giải can thiệp. Bất công là tình trạng vắng bóng công bình: Tôi không đụng chạm quyền lợi của anh, nhưng anh đem búa đập nhà tôi. Anh đã không tôn trọng công bình và đã gây ra cho tôi bất công. Bất công là khi công bình bị tấn công, vi phạm: Hai bên đã ký kết giao kèo, nhưng anh không tôn trọng, cứ cho người sang phá hoại hoa mầu ruộng nhà tôi. Anh đã gây bất công cho tôi. Anh nhận từ tôi lòng yêu mến, ngưỡng mộ, hy sinh, nhưng anh phản bội, bỏ rơi tôi, anh đã gây cho tôi bất công. Anh có bổn phận xây dựng, bảo vệ đất nước vì đất nước đã yêu thương, nuôi nấng anh, nay anh bán đứng quê hương, làm hại đất nước, anh đã gây bất công cho đất nước, quê hương.
Như thế, bất công là vi phạm bổn phận công bình và bất cứ vi phạm nào đều có người vi phạm và người bị xúc phạm, người gây tổn thất và người bị tổn thương, người gây bất công và người chịu hậu quả buồn của bất công, tác giả tội ác và nạn nhân tội nghiệp. Bất công đã gây ra đối kháng căng thẳng giữa hai bên và tạo nên bầu khí căng thẳng, rực lửa hận thù. Bất công làm đảo lộn đời sống bình thường, an bình, hạnh phúc. Bất công đặt con người vào vị trí mâu thuẫn, thù nghịch, sẵn sàng trừng phạt, tiêu diệt nhau. Bất công chặt đứt giây liên đới hoà bình, thân ái và khoanh vùng chiến đấu, đào chiến hào tấn công. Bất công càng lớn, thù hận càng cao. Bất công càng sâu đậm, chiến tranh càng khốc liệt.


Trước những vi phạm và hậu quả tai hại của bất công, người ta có những thái độ nào?
Người ta có thể ỷ thế mạnh và chơi “bài lì”, không sửa chữa bất công; hoặc bất chấp đòi hỏi của công bằng là bồi thường thiệt hại vật chất, tinh thần. Người ta cũng có thể tìm những giải pháp giai đoạn, tạm bợ để ru ngủ đối phương. Nhưng cả hai thái độ trên đều không tái tạo được an bình và ngày đêm người trong cuộc sẽ khổ sở vì “chiến tranh”. Nói đến chiến tranh là nói đến tình trạng mất an ổn, mà an ổn quan trọng nhất, ảnh hưởng lớn cho hạnh phúc con người là an ổn tinh thần. Ta có thể tưởng tượng một giấc ngủ an bình, hạnh phúc của một tâm hồn không gây bất công, thù oán với ai và một giấc ngủ trằn trọc, lo sợ bị trả thù của một người gây nhiều bất công, làm hại người khác, tổn thương tha nhân. Chính vì muốn “ngủ ngon với tâm hồn an bình”, chính vì muốn tránh tâm trạng lo âu, sợ sệt, chằm chặp đề phòng bị khủng bố của người lâm chiến mà người ta không thể sống mãi trong căng thẳng do bất công. Chính vì cần một bầu khí bình an, an toàn mà người ta phải tìm đến hoà giải. Hạnh phúc ở đâu và thời nào cũng là mục tiêu phải đạt của con người. Khát vọng hạnh phúc ấy đã vận động, thúc đẩy con người đi tìm hoà giải, vì ngoài hoà giải, không còn phương án nào có thể chuộc lại bất công, nối lại liên đới, tái lập an bình. Ngay trên bình diện thế giới, các nước lâm chiến, dù thù địch lâu năm, lâu đời, nhưng đến một lúc nào đó, vì không chịu nổi áp lực đe doạ của đối phương, đã phải ngồi vào bàn hội nghị, cùng tìm một giải pháp hoà bình. Cách này hay cách khác, khát vọng bình an nơi con người vẫn luôn kêu gào hoà giải, cần đến hoà giải.

Nhưng thế nào là hoà giải?
Hoà giải thường được hiểu là hai bên ngồi lại trao đổi, tìm một giải pháp thoả đáng bồi hoàn những thiệt hại cho phía bị tổn thương. Nếu bất công đã gây ra nông nỗi thì người gây ra bất công phải trả lại những gì đã làm mất, hư hại, tổn thất để nông nỗi được tẩy xóa nhờ công bình. Công bình xuất hiện để làm việc với bất công. Công bình có mặt để đòi bất công trả lẽ. Công bình ra tay để hậu quả do bất công gây ra được đền bù cân xứng. Công bình đối mặt với bất công và hoà giải được hiểu khi bất công gục mặt đền trả hết những gì công bình đòi hỏi, khiếu nại. Tiến trình hoà giải sẽ nhanh hay chậm, thành công hay thất bại, tốt đẹp được bao nhiêu phần trăm hoàn toàn tùy thuộc trao đổi, thương lượng giữa bất công và công bình, giữa tác nhân và nạn nhân của bất công. Ở đây, ta bị đặt trước giới hạn của hoà giải theo công bình của nhân loại; bởi công bình nhân loại là công bình không bác ái, công bình đứng riêng lẻ một mình như quan toà ngồi riêng một tòa xử án; bởi công bình của con người là “răng đền răng, mắt đền mắt”, nên khó có thể đạt đến mức hoàn hảo trong công tác đền bù. Nếu răng cứ khăng khăng đòi răng, mắt cứ nghiêm khắc đòi mắt thì khi người gây tội ác, bất công đến lúc hoà giải răng không còn, mắt chẳng thấy thì hỏi sẽ lấy gì mà đền trả người bị thiệt hại cho đúng lẽ công bằng. Nếu công bằng của nhân loại đòi chi li từng phân thiệt hại thì mãi mãi hoà giải giữa con người sẽ bế tắc, hoặc không đem lại kết quả lâu dài, vững chắc, có nghĩa là không tái lập được giây liên đới bền chặt và một bầu khí an bình như phải có. Hoà giải với tiêu chuẩn công bình nhân loại sẽ khó đảm bảo sự chân thành trong trao đổi vì nền tảng chỉ là công bình nguyên chất, khô khan, cứng cỏi, đanh thép, lạnh lùng. Tóm lại, hiểu đơn giản hoà giải là trả lại công bình cho bất công như trả lại món đồ đã ăn cắp cho khổ chủ là một thiếu sót và không dẫn đến hoà giải thực sự, sâu sắc, vững bền. Hoà giải kiểu “ăn cắp - trả lại, gây thiệt hại bao nhiêu, bồi thường bấy nhiêu” là kiểu hoà giải của nhân loại và kết quả sẽ là: hòa giải bao nhiêu cũng không hoà bình, hòa giải cỡ nào cũng vẫn binh đao, hoà giải đến đâu cũng lao đao, lấn cấn, vì công bình đứng một mình không thể đem lại an bình thật.
Trở về với Đức Kitô, Đấng Hoà Giải nhân loại với Chúa Cha, Đấng đã xuống ở với con người để vào bàn hội nghị với con người, ở đó con người là tác nhân gây ra bất công, những bất công tày đình, rất nặng nề đối với Thiên Chúa là đấng tạo nên mình. Với tội lỗi chồng chất, con người đã vi phạm công bình đối với Thiên Chúa khi bất chấp bổn phận của thụ tạo đối với Đấng Chủ Tạo, bất chấp nghĩa vụ làm con với cha, bất chấp trách nhiệm làm chủ và coi sóc vạn vật. Cứ theo lẽ công bình, con người phải đền trả, bồi hoàn những thiệt hại đã gây ra do tội, những tổn thương đã xúc phạm đến Thiên Chúa khi phá vỡ công trình tạo dựng nguyên thủy của Ngài; chưa nói đến tội phản nghịch, bội ước đối với Đấng đã ký kết với con người giao ước yêu thương. Đức Kitô có quyền hạch hỏi và đòi bồi thường, nhưng thay vì tính toán thiệt hại chồng chất, Ngài đã gánh hết nợ nần, bất công của con người và xóa sạch tất cả bằng máu Ngài để tái lập một liên đới mới, một giao ước mới, vĩnh cửu đời đời. Ngài đã hoà giải con người, mỗi người với Chúa Cha bằng cái chết và tái lập tình nghĩa Đất - Trời, tình cha con giữa Thiên Chúa và loài người.
Trong cuộc hoà giải với con người, Đức Kitô đã đi bước trước: “Khi anh còn ở xa, cha anh đã trông thấy anh, cha động lòng thương và chạy đến ôm chầm lấy anh mà hôn” (Lc 15,20). Người con hoang đàng trở về chưa kịp nói với cha những lời tạ tội, thống hối thì cha anh đã “chạy lại, ôm chầm lấy anh mà hôn”. Cha đã không cho anh nói thêm, đã không cần anh xin lỗi dài dòng, nhưng chạnh lòng thương, mừng rỡ, ôm chầm lấy. Hình ảnh người cha là hình ảnh Thiên Chúa đi tìm con người để hoà giải con người với mình. Có đời nào người làm bất công, kẻ có tội lại được người vô tội, người bị thiệt hại, tổn thương đi tìm và hoà giải? Có đời nào cậu con phung phí hoang đàng, tiêu tán hết sản nghiệp của cha, nay trở về lại được cha âu yếm ôm hôn, mà chẳng bị hạch hỏi tội lỗi và bắt phải đền bù? Thiên Chúa đã hoà giải con người bằng sáng kiến kỳ lạ đầy yêu thương, nhân hậu. Sáng kiến hoà giải của Ngài không dựa trên công bình kiểu nhân loại, nhưng để yêu thương, tha thứ phủ lấp công bình, nên chỉ còn tình xót thương nổi bật trong hoà giải. Khi chạy ra đầu ngõ đón con, người cha đã tìm đến con để hoà giải, đã đi bước trước để cha con hoà giải mà không cần qua một thủ tục, nghi thức rườm rà nào. Đi tìm con người đã xúc phạm đến mình để hoà giải, Thiên Chúa đã xuống quá thấp trước con người tội lỗi để nâng con người lên, để nối lại với con người mối giây ân tình một thời đã đứt vì bất công của con người gây ra. Là Tình yêu nên Thiên Chúa không thể không yêu thương, nếu không Ngài sẽ tự chối chính mình. Chính vì tình yêu mà ơn hoà giải đã được ban nhưng không và dồi dào, miễn con người dám mở cửa lòng để đón nhận. Như người con hoang đàng đã mở cửa lòng khi tự nhủ: “Tôi sẽ trở về với cha và thưa với ngài rằng: Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha” (Lc 15,18). Như thế, điều kiện để được hoà giải với Thiên Chúa không là số lượng chính xác thiệt hại phải đền bù hay công bình chính xác phải bù đắp bất công đã gây ra, nhưng là thái độ mở cửa lòng để Thiên Chúa vào được để ban ơn hòa giải. Người cha đã không nói một lời phiền trách hay gắt gỏng, bực bội ra điều kiện, nhưng xúc động, vui mừng vì con tôi chết, nay sống lại, đã lạc mất nay tìm thấy (Lc 15,32).
Tự mình đi bước trước đến hoà giải với con, người cha - Thiên Chúa cũng hoà giải con người với nhau. Khi nghe gia nhân bảo: “chú em đã về và cha đã cho giết bê béo để ăn mừng, vì chú về mạnh khoẻ”, người anh lớn tức giận, nổi sùng, không muốn vào nhà (Lc 15,27-28). Cha anh phải ra gặp và khuyên bảo. Niềm vui của cha đã không là niềm vui của người anh cả. Hạnh phúc của cha đã không là hạnh phúc của người anh cả, vì trái tim cha thì đầy nhân hậu, thương xót, còn quả tim người anh thì chật hẹp, ích kỷ. Người anh cả đã không mừng vì em mình về, không vui khi em bình an, không phấn khởi khi từ nay gia đình quây quần, cha già thôi khắc khoải, mắt lệ ngóng trông đầu ngõ mỗi buổi chiều. Trái lại, người anh giận dữ vì em về, thất vọng vì từ nay trong nhà thêm một miệng ăn, bực bội vì cha già mừng rỡ đón thằng con bất hiếu, hư hỏng. Thế mới biết, trái tim người anh bấy lâu đã chai sạn, cằn cỗi nên chẳng thương cha, cũng chẳng nhớ em. Anh đang lên cơn sốt ích kỷ khi nghĩ đến ngày mai trong nhà thêm một đứa mà đáng lẽ nó nên chết đi thì hơn. Cũng vì ích kỷ, anh nhận ra những bất công, thiệt hại vật chất của em đã gây ra và anh đòi em phải trả lẽ công bình. Anh dựa vào công bình để đẩy em ra khỏi vòng tay của cha. Anh mượn lẽ công bình để em không được ở nhà và không còn quyền làm con như anh. Anh cậy lẽ công bình để loại trừ em như loại trừ một đối thủ. Lòng ghen tức đang gây mâu thuẫn, căng thẳng trong anh và anh không thể hiểu được: tại sao cha lại quá yếu đuối, nhu nhược trước thằng con “trời đánh”, hoang đàng, sa đoạ đã gây biết bao buồn đau, thiệt hại cho cha và gia đình. Cũng với giọng đòi hỏi công bình, anh sấn sổ hạch hỏi: “Con đã hầu hạ cha bao nhiêu năm, không làm trái ý cha bao giờ, thế mà có khi nào cha tự cho con một con dê béo để vui vẻ với bạn bè? Còn đứa con hoang đàng của cha, phung phí, ăn chơi sa đọa trở về thì cha lại giết bê béo ăn mừng” (Lc 15,29-30). Quả thực, anh con cả này bị ám ảnh bởi công bình vật chất nên đã không hạch cha điều gì ngoài chuyện dê béo, bê béo, công tội. Anh không quan tâm đến tình phụ tử, niềm vui của cha khi tìm được đứa con đã mất, hạnh phúc của tuổi già có con cái đông đủ quây quần. Anh chỉ nhắm chuyện của cải và so sánh công sức anh đã phụng dưỡng cha với đời sống điếm đàng, phung phí của cậu em và thúc cha phải phân minh giải quyết “cho ra nhẽ”. Anh muốn một giải pháp công bình tuyệt đối; nghĩa là cha không được vui mừng, ăn khao, tha thứ, âu yếm cậu em hư đốn, nhưng phải trừng phạt, truất quyền hoặc đòi cậu phải bồi thường thiệt hại nếu muốn được ở lại nhà.

Công bằng của người anh cả thật khủng khiếp, nảy lửa. Nó nóng như lửa trên đôi mắt và trong trái tim đang sùng sục sôi vì ghen tương, ích kỷ. Người anh cả không ngờ: đứa con hoang đàng đang gây bất công, đau khổ cho cha lúc này chính là anh.
Biết người con lớn ghen tuông, hiềm khích cậu em mới về, người cha lại phải hoà giải hai con với nhau khi giải thích cho đứa con lớn: “Con ơi, con hằng ở với cha, nên mọi của cải cha có đều là của con. Nhưng bây giờ ta phải ăn mừng, vui vẻ với em con chứ, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay tìm thấy” (Lc 15,31-32). Phải hoà giải cách nào nữa, ngoài cho người con lớn biết: tài sản của nhà này là của anh. Cũng lại phải đem vật chất ra dụ… Thế mới biết, đa số các mâu thuẫn, đố kỵ đều phát sinh từ lòng ham muốn vật chất và tranh giành của cải.
Đức Kitô đã hoà giải con người với Thiên Chúa, đồng thời hoà giải con người với nhau bằng lẽ công bình của Tình thương. Như người cha đã tự chạy lại ôm con và hoà giải với con, vì yêu con. Ông cũng tự ra ngoài gặp cậu cả, nhẹ nhàng giải thích để hai anh em không hiềm khích, đố kỵ, ganh ghét nhau. Ông tự nguyện hy sinh để hai con hoà giải với nhau, vì ông yêu chúng. Tình thương của Thiên Chúa là tình cha bao la luôn đi bước trước đến hoà giải với con người và đi bước trước thay cho con người để hoà giải con người với nhau. Đức Kitô đã hoà giải tất cả trong máu Ngài bằng một tình yêu tự hiến để món nợ công bằng mà con người phải trả cho Thiên Chúa được xí xoá, để hiềm khích do bất công giữa con người được tẩy rửa, thứ tha. Chính trong máu của Ngài mà công bình được mặc áo yêu thương, trong cái chết của Ngài mà công bình nảy sinh bác ái. Bác ái trong công bình, công bình có bác ái sẽ hoà giải được tất cả, vì có bác ái, công bình sẽ không cứng cỏi, khô khan, đanh thép, lạnh lùng, nhưng sẽ đại lượng, bao dung, nhẫn nại, vui tươi, nhân hậu và không bao giờ tàn phai.
Mùa Chay mời gọi hòa giải, vì mục đích của “ăn chay” chính là hoà giải với mình, với Chúa, với tha nhân. Không hoà giải, ta không gặp được ai, kể cả gặp mình. Mức độ hoà giải càng chân thành, liên đới giữa ta với Chúa và anh em càng thắm thiết, sâu đậm. Mức độ hoà giải càng cao, tình yêu trong ta càng dồi dào, phong phú.
Đức Kitô đến để hoà giải, môn đệ theo Ngài cũng phải sống sứ mạng hoà giải: hoà giải từ sâu thẳm tâm hồn, hoà giải trong thái độ, cung cách, hoà giải trong ý nghĩ, hành động, hoà giải mình với mọi người và hoà giải mọi người với nhau trong đức ái thứ tha và công bình thương xót như Chúa dạy.