THIÊN
CHÚA CỦA SỰ SỐNG
Sự
sống con người luôn là đề tài nóng bỏng và sôi nổi, nhưng hầu như các buổi
tranh luận đều có khuynh hướng dẫn đến một kết luận chung đó là con người muốn
toàn quyền trên sự sống của mình, toàn quyền quyết định sự sống của mình, và tìm
mọi cách toàn quyền tạo nên sự sống theo ý mình muốn. Và tất nhiên, khuynh hướng
khẳng định con người toàn quyền trên sự sống của mình đồng nghiã với khuynh hướng phủ nhận quyền của Thiên Chúa trên sự sống và
sự chết của con người.
Khẳng
định quyền trên sự sống của mình, con người xác định chủ quyền bất khả xâm phạm
trên thân xác khi chủ trương tự do tính dục, hủy bỏ mọi luật lệ, cấm kị trong
sinh hoạt tình dục, và tự do phá thai. Tự cho mình toàn quyền trên sự sống, con
người cũng cho mình quyền chấm dứt sự sống, khi đồng tình ủng hộ tự do tử tự, và
kỹ thuật trợ tử theo ý muốn.
Đứng
trước trào lưu loại bỏ sự có mặt và quyền can thiệp của Thiên Chúa trong sự sống
của con người, người trẻ Kitô hữu là thành phần có nhiều liên quan và chịu ảnh
hưởng nặng nề do hoàn cảnh sống, môi trường giáo dục, và sinh hoạt xã hội ngày
càng không mấy thuận lợi và phù hợp với Tin Mừng. Vì thế, người trẻ thường phải
đối diện với những thách đố khó vượt qua, để có thể trung thành với giáo huấn của
Giáo Hội về sự sống, những thách đố mà chúng ta cùng chia sẻ sau đây:
1.
Thách
đố trước chân lý Thiên Chúa là Thiên Chúa của sự sống:
Giữa
một xã hội không còn phò sự sống, nhưng ủng hộ tự do tính dục, cởi trói tình dục,
tự do phá thai, người trẻ sẽ không khỏi giao động và tự hỏi: Thiên Chúa có còn
được can thiệp vào đời sống và sự sống của con người nữa không?
Câu
hỏi ấy cũng là thắc mắc của Ápraham, người được Thiên Chúa Giavê chọn làm tổ phụ dân riêng khi Thiên Chúa truyền
cho ông đem giết Isaác, con trai duy nhất
của ông làm của lễ dâng Ngài. Ông không hiểu Thiên Chúa muốn gì, khi bảo ông giết
con, đứa con duy nhất nối dòng, để ông có thể trở thành tổ phụ một dân “đông như
sao trên trời, nhiều như cát dưới biển”.
Tuy
không dám nghi ngờ Thiên Chúa, nhưng ông phân vân tự hỏi không lẽ Thiên Chúa ông
mới gặp và tôn thờ cũng không khác các thần mà trước đây ông đã thờ, bởi các thần
ấy đều ưa thích của lễ là sinh mạng con người, lễ tế phải là máu của chúng sinh. Nhưng đúng lúc ông vung dao chém
Isaác bị trói trên đống củi, thì sứ thần gọi tên ông và nói: “Đừng giơ tay hại
đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa… Ông Ápraham
ngước mắt nhìn thì thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Ông Ápraham
liền đi bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình” (St
22,12-13).
Qua
thách đố và sự can thiệp bất ngờ ở phút chót, Thiên Chúa đã mặc khải cho Ápraham:
Ngài là Thiên Chúa của sự sống, Thiên
Chúa của người sống, Thiên Chuá tuyệt đối tôn trọng sự sống. Không như các
thần khác, Thiên Chúa Giavê không “khát máu” con người, nhưng nuôi dưỡng,
gìn giữ, bênh vực, bảo vệ sự sống mà Ngài đã ban cho con người. Là Thiên Chúa của
sự sống, Thiên Chúa muốn dân riêng của Ngài tuyệt đối tôn trọng sự sống như hồng
ân vô giá Ngài ban, và không được làm bất cứ điều gì tổn thương, nguy hại đến sự
sống con người.
Người
Kitô hữu hôm nay cũng như Ápraham ngày xưa bị đặt trước thách đố rất cam go khi
phải chọn lựa giữa quyền tối thượng của Thiên Chúa trên sự sống và tiến
triển của khoa học xem ra như đang tranh giành vị thế làm chủ sự sống của Thiên
Chúa.
Cách
riêng người trẻ, với tinh thần và lòng ngưỡng mộ khoa học đang bị cám dỗ nặng nề
đi vào lựa chọn: con người có quyền tối thượng quyết định mọi vấn đề liên quan
đến sự sống của mình, mà quên rằng không
phải bất cứ việc gì, sự gì người ta có thể làm là người ta phải làm, và được
phép làm, như khi vừa phát minh kỹ thuật “nhân bản vô tính” với con lừa
Dolling (cloning), người ta muốn thực hiện ngay cho con người, khi phát minh kỹ
thuật chọn phái tính, chọn kích thước, chọn mầu tóc, mầu da, mầu mắt, cha mẹ muốn
áp dụng ngay để sản suất những đứa con “hoàn toàn ưng ý” như người ta chế tạo các
búp bê.
Giáo
Hội không nói “không”, không phủ nhận một cách cực đoan, mù qúang công việc và thành qủa của khoa học. Trái lại,
Giáo Hội khuyến khích, ủng hộ khoa học để khoa học làm công việc của mình với mục
đích phục vụ chính đáng hạnh phúc của con người, nhưng đồng thời Giáo Hội cảnh báo khoa học những rủi ro tiềm
tàng, những nguy hiểm có thể xẩy ra cho toàn thể nhân loại nếu những phát minh
không được sử dụng và hướng đến phục vụ con người một cách toàn diện, nghiã
là không tôn trọng toàn thể con người với tất cả quyền sống làm người. Nói cách
khác, khi cảnh báo khoa học không được lạm dụng những phát minh trong lãnh vực
sự sống, Giáo Hội nhắc nhớ khoa học phải khôn
ngoan không vì cuộc chạy đua điên cuồng của các công trình phát triển mù quáng,
mà bản tính con người, giá trị con người không còn được bảo vệ, tôn trọng.
Bởi
một khi không tôn trọng bản tính con người với mầu nhiệm được sinh ra làm người
của mỗi con người, chúng ta sẽ không nhận quyền tối thượng là quyền tạo dựng và
quan phòng của Thiên Chúa trên con người nữa. Thái độ từ chối này sẽ không chỉ
mang tính cách “vô thần” mà còn mang tính “phi nhân”, bởi khi phủ nhận đấng tạo
dựng, người ta cũng phủ nhận luôn giá trị và mầu nhiệm của thụ tạo là con người.
Thực
vậy, khoa học có lãnh vực và giới hạn của khoa học, và khoa học chỉ có giá trị
khi tôn trọng toàn thể, toàn diện, toàn phần con người gồm hồn và xác, giá trị
thân xác và giá trị tinh thần, mặt nổi thấy được, và chiều sâu huyền nhiệm, nên
bất cứ một phủ nhận, một tổn thương, một vi phạm dù nhỏ đối với bất cứ phần nào
của con người cũng là hành vi phạm tội chống lại con người, mà chúng ta phải luôn
cẩn trọng.
2.
Thách
đố trước sứ mạng đồng cộng tác với Thiên Chúa trong công trình của sự sống:
Một
sứ mạng vô cùng cao cả mà con người được Thiên Chúa ký thác, đó là “được cộng tác
với Thiên Chúa trong công trình tạo dựng những con người mới”, một sứ mạng mà
con người hoặc sơ ý không nhận ra hoặc cố tình không quan tâm, chú ý.
Khi
tạo dựng người nam và người nữ, Thiên Chúa đã ban cho họ khả năng sinh ra những
con người mới, khi chúc lành cho Evà, Ađam, và nói: “Hãy sinh sôi nảy nở thật
nhiều cho đầy mặt đất” (St 1,28). Đây là mầu nhiệm tạo dựng được nối dài, khi
con người trở thành cung lòng của Thiên Chúa để cưu mang và ban cho thế giới những
con cái mới của Ngài.
Ý
thức vai trò và sứ mạng cao cả và quan trọng này, con người nói chung, và người
Kitô hữu nói riêng sẽ không xem chuyện sinh ra những con người là chuyện bình
thường, và chuyện giết bỏ con người cũng bình thường, bình thường như chuyện “có
bầu, dính thai” khi nam nữ ăn ở, gần gũi nhau.
Qủa
thực, không có chuyện gì dễ hơn chuyện nam nữ có con với nhau, vì thân thể của
hai người nam nữ được Thiên Chúa cấu tạo tuyệt vời cho sứ mạng cộng tác với Thiên
Chúa để sinh ra những con người mới. Chính vì qúa dễ khi tất cả đã được lập trình,
chuẩn bị, nên người ta dễ hạ bậc, giáng cấp chuyện phi thường vì từ tay Thiên
Chúa xuống hàng tầm thường, để rồi không ngại ngùng, không tiếc xót, không hối
hận khi bỏ đi những sự sống bị coi là “không vừa ý, không đúng lúc, không thuận
lợi”.
Hãy
nhìn ra chung quanh để thấy có bao nhiêu thai nhi bị trục ra khỏi lòng mẹ, bao
nhiêu bào thai vô tội bị chính mẹ mình từ chối và đào thải như vứt bỏ một cái gì
rất nhơ nhớp, ghê tởm, kinh dị; bao nhiêu “cha mẹ” không xứng đáng với thiên chức
và danh xưng cao qúy Cha - Mẹ đã chau mày, chặt lưỡi, lắc đầu, thở dài bực bội,
khó chịu, nổi giận khi nghe tin “có thai, có bầu”; bao nhiêu tổ chức nhân đạo
thu gom mỗi ngày hàng trăm thai nhi đủ cỡ tháng tuổi bị giết chết trong các nhà
thương, phòng khám phụ khoa, cơ sở “Kế họach gia đình”.
Vì
“tạo ra” sự sống qúa dễ, “chế ra” con người qúa nhanh mà “sản phẩm con người”
trở thành rẻ rúng, mất giá trầm trọng, để khi cần hủy bỏ những sản phẩm “bất đắc
dĩ, ngoài kế hoạch hoặc thặng dư”, người ta không chút ngượng ngùng, bận tâm,
nhưng cho đó là công tác bình thường, không ảnh hưởng đến ai.
Qua
những nghiên cứu tâm lý cũng như những tâm sự của rất nhiều bà mẹ đã phá thai,
chúng ta biết thêm một sự thật rất buồn, đó là không bà mẹ nào đã “vui vẻ” phá
thai, nhưng tất cả đều đã trải qua những giây phút một mình vô cùng căng thẳng
trước khi đi đến quyết định loại bỏ con, và nỗi ám ảnh giết con ấy đằng đẵng đeo
bám và ảnh hưởng trầm trọng đời sống tâm lý của các bà mẹ đáng thương nhiều hơn
đáng trách.
Ở
đây, chúng ta cần ghi nhận tâm tình chia sẻ, lòng thương xót và thái độ tôn trọng
của Giáo Hội đối với những bà mẹ tuy làm điều không đúng, nhưng rất đáng thương
này. Là Mẹ nhân từ, Giáo Hội luôn cảm thương con cái mình, nhất là khi con cái
rơi vào tình trạng bế tắc đưa đến sai phạm. Giáo Hội cũng hiểu biết với tình Mẹ
thương con những phụ nữ có thai vì bị hãm hiếp, và mang lại cho chị em những hướng
dẫn cần thiết cũng như nâng đỡ, đồng hành với chị em trên chặng đường không luôn
dễ dàng vượt qua.
Bên
cạnh nạn phá thai, như thách đố phải lựa chọn trước sứ mạng cộng tác với Thiên
Chúa trong công trình tạo dựng con người, chúng ta còn bị đặt trước cám dỗ tự
cho phép mình kết liễu sự sống của mình cũng như của người khác khi họ yêu cầu.
Đó là trường hợp tự tử và giúp người bệnh được chết sớm.
Với
cả hai trường hợp, lập trường của Giáo Hội rất cứng rắn và không thay đổi, đó là
không ai có quyền quyết định sự sống và
sự chết của con người, bởi sự sống, sự chết thuộc quyền Thiên Chúa, và Thiên
Chúa luôn ban cho con người đủ ơn để vượt qua mọi khó khăn, thử thách trên hành
trình cuộc đời, và trong mọi thử thách, gian truân, Giáo Hội có nhiệm vụ nâng đỡ
niềm tin và hy vọng của dân Chúa, nhân loại.
Chúng
ta cũng đừng quên: tự do của mỗi người không bao giờ được coi là quyết định có
giá trị tuyệt đối, khi tự do đó vi phạm chính bản tính con người và giá trị con
người, như khi quyết định tự tử, hoặc giúp người khác kết liễu sự sống theo yêu
cầu của họ, dựa vào tự do, người ta đã hủy diệt tự do cùng với sự sống, hủy diệt
khả năng lựa chọn cùng với sự tồn tại của hữu thể. Đó là điều hoàn toàn phi lý,
không thể chấp nhận được, vì là một giải pháp không giải quyết gì, nhưng hủy diệt
mọi khả năng, khả thể “giải quyết”.
Về
những người bệnh muốn chết sớm và yêu cầu bác sĩ giúp họ kết thúc sớm cuộc đời,
chúng ta nên nghe những chia sẻ của các bác sĩ trong cuộc. Các bác sĩ này đã kể
lại: Hầu hết các bệnh nhân xin được trợ tử, tức xin được giúp chấm dứt sớm sự sống
đều liên tục thay đổi ý kiến, quyết định. Cũng chính bệnh nhân đã nài nỉ được kết
thúc sớm cuộc đời khi cơn đau ào tới tưởng như không còn có thể chịu đựng đã lại
khóc lóc van xin các bác sĩ khẩn trương chữa trị, cứu sống.
Vì
thế, không được phép dựa vào yêu cầu của bệnh nhân, vì quyết định của họ
trong tình trạng đau ốm không đủ điều kiện và lý do khả tín. Đàng khác, chúng
ta phải hiểu rằng khi xin chúng ta giúp kết
liễu nhanh cuộc đời, chính là lúc họ gián tiếp nài xin chúng ta giúp họ
xoa dịu nỗi đau.
Thực
vậy, khi không ủng hộ những hành vi tự chấm dứt sự sống của mình hoặc giúp kết
thúc sự sống của người khác theo yêu cầu của họ, người Kitô hữu không thể bị
coi là thờ ơ, lạnh lùng trước đau khổ tinh thần và đau đớn thể xác. Trái lại,
chúng ta được mời gọi đóng góp mọi nỗ lực để xoa dịu cơn đau của chính mình, cũng
như giúp người anh em vượt qua khủng hoảng, thử thách ở giai đọan cuối đời, làm
thế nào để chính chúng ta, cũng như người anh em tìm lại được bình an để tiếp tục
sống hoặc bình an để ra đi. Đây là sứ vụ rất khó khăn đòi chúng ta một niềm tin
tưởng rất mãnh liệt vào ơn phù trợ của Thiên Chúa cho chúng ta cũng như cho người
anh em đau khổ mà chúng ta đang phục vụ, đồng hành.
Do
đó, những phát minh khoa học liên quan sự sống con người ngày càng tuyệt vời thì
thách đố tin nhận Thiên Chúa là Thiên Chúa của sự sống, nắm giữ quyền tối thượng
và tuyệt đối trên sự sống và sự chết của con người càng trở nên cam go, khó vượt
qua, do cám dỗ “thần tượng khoa học”, sùng bái con người, với niềm tin tuyệt đối
vào khả năng vượt xa Thiên Chúa của con người, điều mà phong trào “đòi Thiên Chúa phải chết” chủ trương,
cổ động. Điển hình là phong trào khuyến khích “thụ thai ống nghiệm” đang được
nhiều người tán thành, ủng hộ.
Ở
đây, người viết không đi vào chi tiết, mà chỉ ghi lại câu chuyện của một sinh
viên Pháp, qua những chia sẻ rất thực của anh: trong ba năm đại học, để có tiền
sống, anh làm việc bán thời gian trong “nhà băng tinh trùng” với công tác lấy
tinh trùng của những người đàn ông tự nguyện đến bán. Sau này, chính anh vì lợi nhuận đã bán tinh trùng của mình hai lần một
tuần… Phần đông, không ai quan tâm đến tinh trùng đã được bán, và theo điều luật,
cũng không ai được biết tinh trùng của mình được cấy cho ai, và kết qủa như thế
nào. Nhưng riêng anh, vì tò mò, và nhờ quen biết, anh được một bác sĩ của nhà
băng tinh trùng tiết lộ: tinh trùng của anh đã được cấy cho hai trăm phụ nữ, và
tạo ra hơn một trăm em bé. Nghe vậy, anh đã bị sốc nặng, trầm cảm và nhiều năm
phải ở trong bệnh viện tâm thần.
Tóm
lại, không phải Giáo Hội không biết và không cảm thông nỗi buồn của những người
mẹ hiếm muộn, hoặc không thể có con, cũng như Giáo Hội không ngây thơ trước những
vần đề nghèo đói ở nhiều quốc gia, được dùng làm tiền đề cho chủ trương ngừa
thai và phá thai tự do, nhưng Giáo Hội không thể đồng loã với những chủ trương lạm
dụng mọi phát minh khoa học để vi phạm quyền sống của con người, và hạ thấp, làm
tổn thương nhân vị, nhân phẩm. Giáo Hội cũng không thể hèn nhát nhượng bộ vì áp lực của những tổ chức
chủ trương tuyển lựa con người ngay từ
bào thai, để tạo một thế giới chỉ gồm những
“siêu sao, ưu tú, ưu việt, đỉnh cao trí tuệ loài người”, khi chủ trương diệt ngay
trong lòng mẹ những bào thai “có vấn đề”, bởi theo Giáo Hội, thế giới không
thể bị phân chia làm hai loại người: một bên là siêu nhân phải gìn giữ, một bên
là rác rưới, gánh nặng của xã hội phải dẹp bỏ.
Vâng,
hơn bao giờ hết, chúng ta cần ý thức bổn phận của người Kitô hữu trong việc tôn
trọng, gìn giữ, bảo vệ sự sống trong xã hội loài người, vì Thiên Chúa chúng ta
tôn thờ là Thiên Chúa của sự sống, Thiên Chúa giữ quyền sống chết của con người,
và chúng ta, tất cả đều được kêu gọi hoặc trực tiếp cộng tác vào công trình “tạo
dựng” những con người mới, hoặc giáo dục, xây dựng những con người tử tế cho xã
hội, và công dân của Nước trời.
Bởi
nếu chúng ta xác tín Thiên Chúa là nguyên ủy và cùng đích của đời sống con người,
chúng ta sẽ không nhân danh tự do để tranh giành với Ngài quyền tối thượng và
tuyệt đối trên sự sống sự chết của con người; nếu chúng ta tin Thiên Chúa
tín nhiệm con người và chọn con người làm cộng sự viên của Ngài trong sứ mạng
sinh sản cho đầy mặt đất những con người mới, chúng ta sẽ tự biết phải làm gì để
sự sống con người được tuyệt đối tôn trọng, giá trị con người được đề cao, nhân
vị, nhân phẩm không bị hạ giá, chà đạp; nếu chúng ta nhận ra chính thân xác mình
đã được thánh hoá để trở thành Đền Thờ của
Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ không coi thường, làm ô uế, nghèo nàn thân xác
mình, nhưng biết tôn trọng, gìn giữ để xứng đáng là Nhà của Thiên Chúa Ba Ngôi
cư ngụ (x. 1 Cr 6,19).
Vẫn
biết giữa một xã hội vô thần, vật chất, thực dụng, hưởng thụ, tôn trọng thân xác
mình và thân xác người khác, cũng như tôn trọng sự sống và sự chết con người là
những thách đố cam go, khó vượt qua. Đặc biệt người trẻ trong thế giới nhiều
khuynh hướng, chủ trương đan xen, chồng chéo, đa chiều sẽ rất khó phân định để
có những chọn lựa đúng.
Chính
trong hoàn cảnh và giai đọan khó phân định, Đức Giêsu có mặt trong Giáo Hội của
Ngài để soi sáng, hướng dẫn chúng ta. Ngài mời gọi chúng ta đến với Giáo Hội của
Ngài, ở đó Chúa Thánh Thần là sự sống, tình yêu và sự thật sẽ dậy chúng ta phải
làm gì, như Ngài đã dậy chúng ta cầu nguyện và gọi đúng tên Thiên Chúa: “Ápba,
Cha ơi”! (x. Gl 4,6)
Jorathe
Nắng Tím