Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 29 tháng 7, 2019

Của Cải

Suy Niệm TIN MỪNG CHÚA NHẬT 18 Thường Niên, Năm C : (Lc 12, 13-21)
Của cải cần thiết cho cuộc sống, vì không có của, lấy gì nuôi con ? không “của ăn của để”, tiền đâu đi bệnh viện khi đau ốm? không của cải dành dụm, con cái cưới vợ, lấy chồng, tiền đâu lo cho chúng ? Và ai cũng phải lo kiếm tiền, gom của, vì không tiền bạc, đời sống bấp bênh; không của cải, tương lai mịt mờ.
Đức Giêsu làm người. Ngài biết tiền bạc cần thiết cho cuộc sống thế nào. Suốt ba mươi năm ở Nadarét với cha mẹ, Ngài đã phụ giúp thánh Giuse, cha mình trong công việc làm ăn để có tiền nuôi sống gia đình. Ngài hiểu thế nào là mồ hôi nhễ nhãi, chảy dài trên trán người lao động dưới cái nắng gay gắt, chói chan ; Ngài thấm thía nỗi cực nhọc của người thợ cần cù quên cả đời mình để có đồng lương cố định, vừa đủ nuôi vợ và đàn con thơ dại. 
Làm người và ở giữa mọi người, Đức Giêsu hiểu hoàn cảnh đáng thương của những người nghèo phải cật lực làm việc mới có cơm ăn, áo mặc, những người thất nghiệp kinh niên vì thiếu tay nghề, hoặc sức khỏe không cho phép ; cả những người có đủ điều kiện lao động, nhưng vì lý lịch không sạch, nhân thân không sáng, nên không cơ quan, xí nghiệp nào chịu thâu nhận làm việc.
Vì thế không thể kết tội Đức Giêsu chủ trương “bần cùng hoá” nhân dân bằng lời kêu gọi thơ ngây của “người cõi trên” không thực tế, chẳng hiểu gì cuộc sống nhiều nhu cầu và luôn cần có tiền bạc, của cải. 
Khi cảnh cáo : “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư dả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu” (Lc 12,15), Đức Giêsu muốn nhấn mạnh hai nguy cơ, đó là tham lam và ki cóp của cải.
Tại sao tham lam của cải là nguy cơ ? Thưa vì khuynh hướng tự nhiên của con người là ích kỷ, chỉ nghĩ cho mình, nên khi không kềm chế, ích kỷ sẽ đốt nóng lòng tham không đáy, thúc đẩy con người đến điên cuồng chiếm đoạt của cải, say mê thu gom vật chất mà không nghĩ đến lẽ công bằng, đức bác ái, lòng vị tha. Người tham lam của cải không nể sợ ai, không kiêng kỵ, cũng chẳng lo mất thể diện, vô liêm sỉ, nhưng “chai mặt cứng lòng “ bốc hốt, tham lạm bao nhiêu có thể, để làm giầu cho mình. 
 Đức Giêsu lên án những người tham lam của cải, mà không nghĩ đến người chung quanh thiếu ăn thiếu mặc, vì sự dư thừa, phung phí của cải sẽ là nguy cơ cho số phận đời đời của họ, khi đến ngày chung thẩm, Thiên Chúa sẽ chỉ hỏi họ về lòng tốt của họ đối với anh em (x. Mt 25,31-46).
Và một khi lòng tham không đáy thống trị, người ta sẽ mải miết ki cóp, cặm cụi thu gom, cuống cuồng tích trữ cho thật nhiều, để rồi khi thần chết bất ngờ đến đòi mạng, thì tất cả của cải ấy sẽ chẳng còn thuộc về mình (x. Lc 12, 20).
Thế chẳng phải là ngu ngốc, dại khờ khi tham lam, ki cóp của cải trần gian cho đến cuối đời, để rồi phải bỏ lại tất cả, mà ra đi tay trắng và nghèo nàn khi ra trình diện Đấng Tối Cao ?
Tóm lại, Thiên Chúa không bảo chúng ta lười biếng, thụ động, dựa dẫm người khác, vì khinh thường của cải, tiền bạc, nhưng cảnh giác chúng ta cạm bẫy nguy hiểm của tham lam, ki cóp của cải mà không dùng của cải để mưu cầu hạnh phúc cho mình, cho người thân và những ai cần đến lòng tốt, quảng đại của ta. Chính của cải chúng ta có sẽ làm giầu hành trang khi Chúa gọi chúng ta về với Ngài, hành trang được sắm từ tình yêu vị tha, từ đức bác ái, từ cửa cải chúng ta có được do công khó của chính mình.
Xin Chúa giúp chúng con biết nhận ra giá trị cũng như giới hạn của tiền bạc, của cải, và đừng bao giờ lãng quên : gia nghiệp đích thực của chúng con là chính Chúa, và quê hương đời đời của chúng con là Nước Trời.
Jorathe Nắng Tím 

Rõ Gần Mà Quá Xa

Một linh mục già trong nhà hưu kể lại, nhân dịp sinh nhật thứ 95 của ngài : “Đêm qua, trong giấc ngủ chập chờn, tôi thấy Chúa ở sát bên, nhưng tôi lại cảm thấy xa Chúa vạn dặm ; tôi thấy Chúa nhìn tôi, nhưng tim tôi lơ đãng xa xôi ; tôi nghe Chúa nói chuyện, nhưng hồn tôi lạnh lùng, băng giá.
     Những hình ảnh gặp Chúa “nửa mơ nửa tỉnh” đêm qua chiếm đóng toàn thể con người tôi với nhiều câu hỏi : Tại sao tôi lại xa Chúa trong khi Chúa ở sát bên tôi ? Tại sao tôi không có cảm giác bình an đang khi phụng sự Chúa và cố làm cho mọi người cũng phụng sự Ngài như tôi ? Tại sao tôi không nghe rõ tiếng Chúa nói với tôi, đang khi tôi hăng say nói về Chúa ? Tại sao tôi không cảm thấy hoan lạc, mặc dù tôi đang giới thiệu Chúa là niềm vui cho nhiều người ? Tại sao tôi không nhận được hạnh phúc, mặc dù tôi biết mình đang hết mình xây dựng, củng cố sự trường tồn của Giáo Hội, là ngôi nhà hạnh phúc của Thiên Chúa ở trần gian ? 
     “Nhiều ngày trôi qua, một mình với Chúa, tôi cố lắng nghe tiếng Ngài. Và trong thanh tịch của đêm khuya, Ngài thì thầm dậy bảo : Không ai chối cãi con được Cha tuyển chọn để ở gần Cha ( x. Ga 15,16), nhưng con chỉ gần thôi chứ không yêu, nên mãi mãi vời vợi xa Cha”.
    “Không ai chối cãi con là người thân cận, bạn hữu ( x. Ga 15,15), nhưng vì con chỉ muốn độc quyền sở hữu Cha, bằng ngày đêm hăm hở xây bức tường rất dầy, rất cao, phủ thêm hàng kẽm gai sắc nhọn đến rợn người, để không ai có thể đến với Cha mà không được con cho phép, nên con mãi là người ở rất xa, xa như người khách lạ”.
      “Không ai chối cãi con là người được chọn làm quản lý trung tín, và khôn ngoan” ( x. Lc 12, 42), nhưng con không giống Cha vì thiếu lòng nhân ái, nên con đã biến thành người trung tín với quyền lực và khôn ngoan chắt chiu tiền bạc, của cải, mà chưa một lần trung tín và khôn ngoan đích thực như Cha muốn. 
     “Không ai chối cãi con là môn đệ, nhưng vì thiếu yêu thương như dấu chỉ duy nhất để nhận ra ai là môn đệ Cha” ( x. Ga 13, 35), nên con chỉ là người được ai đó sai đến để nghe ngóng, theo dõi, rình rập, quan sát, đánh giá Cha.
     “Không ai chối cãi con là mục tử, nhưng vi thiếu lòng thương xót, con biến chất thành mục tử chăn thuê làm tan nát đàn chiên” ( x. Ga 10, 1-18) : chiên con hốt hoảng liều mạng chạy tứ tán, chiên mẹ đói khát, yếu nhược, mình mẩy đầy vết thương, nên chẳng còn gì để nói với con về chuyện: con còn ở gần Cha hay đã “cao bay xa chạy” ?
      “Không ai chối cãi con là người tín hữu mang tên Cha”, nhưng “hữu danh vô thực”, vì con không muốn trở nên người “cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới áo mặc, cho khách lạ nghỉ lại qua đêm, cho người bệnh viên thuốc, cho người tù một lần thăm nuôi, cho người cô quả, cơ nhỡ, bị đàn áp, bỏ rơi lời ủi an và bàn tay chia sẻ” ( x. Mt 25, 31-46), nên bóng hình con còn đó bên Cha, nhưng lòng con xa Cha lắm rồi.
      “Không ai chối cãi con là người đạo gốc, nhưng gốc rễ của đạo là Yêu Thương thì con không chăm bón, con chỉ phô trương cho hoành tráng, trình diễn cho ngoạn mục những ‘hoa, lá, cành’ rườm rà mang tính cao trào, bạo phát bạo tàn, nên hỏi sao tuy rõ gần mà con cảm thấy quá xa Cha”.
     “Không ai chối cãi con biết rõ từng ngóc ngách của nguyên tắc, từng chấm phẩy của lề luật, từng chi tiết li ti của nghi thức, và con chỉ đường cho người ta đi, nhưng rất tiếc, Cha mới là Đường, chứ Đường không là nguyên tắc, lề luật, nghi thức con thuộc nằm lòng và bám víu, nên có ở ngay bên Đường thì con vẫn lạc lối lầm đường”.
      “Không ai chối cãi con là người có học, nhưng kiến thức, khoa bảng mà con tìm kiếm và dùng làm vũ khí để chà đạp thiên hạ, thì không bao giờ được Cha coi là điều kiện để trở thành người thuộc về Cha, nên con chưa một lần hạnh phúc dù quanh năm suốt tháng con quanh quẩn trong Đền Thờ có Cha ngự”. 
     “Không ai chối cãi con thuộc dòng dõi dân riêng, nhưng con cậy là dân riêng để cấm vận ơn sủng , ngăn cản bước chân Cha đến với mọi người đang trông ngóng gặp Cha, và ganh ghét những người không là dân riêng nhưng được Cha xót thương, mời gọi. Vì thế, rõ là ở gần Cha, nhưng con lại quá xa Cha!”
      Chúa nói với cha già cố trong nhà hưu, hay nói với ai cũng là nói với chúng ta, với tôi, với bạn, bởi không ít thì nhiều, nhưng có lẽ nhiều hơn ít, những sai sót Chúa chỉ dạy đều là những điều chúng ta đã lỗi phạm, như thái độ kỳ cục của người con trai lớn trong dụ ngôn “Người cha nhân hậu” của Tin Mừng Luca (x. Lc 15, 11-32), khi anh vùng vằng bỏ ra ngoài vì ghen tỵ với đứa em “đã chết mà nay sống lại, đã lạc mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15, 32) ; đã bực bội với cha già vì cha rộng lượng thương xót em mình (x. Lc 15,28). Người anh lớn tuy ở với cha, gần kề bên cha đêm ngày, nhưng không biết rõ Cha, không hiểu ý cha, không đồng cảm với cha, tóm lại , tình yêu anh dành cho Cha quá ít ỏi, tầm thường, chưa nói đến tình huynh đệ dành cho em út còn cạn kiệt đến thảm thương, lố bịch hơn.
      Quả thực, người “có đạo” chúng ta rất dễ rơi vào tình trạng “rõ gần mà quá xa” trong tương quan với Chúa, khi tính kiêu căng, tự phụ làm chúng ta ảo tưởng về sự thánh thiện của mình, ảo tưởng về đặc quyền, đặc lợi “dân riêng”, ảo tưởng về sức mạnh của Giáo Hội như một cơ chế trần thế bất diệt. Chính vì những ảo tưởng nguy hiểm này mà dù nói nhiều đến đâu, phô trương, trình diễn cỡ nào, chúng ta cũng vẫn mãi là những chứng nhân không thuyết phục, vì thiếu Thần Khí mà chỉ những người được ở trong Đức Giêsu như cành hiệp nhất với cây (x. Ga 15,4), ở trong tình yêu của Đức Giêsu như Ba Ngôi Thiên Chúa hiệp nhất với nhau (x. Ga 15,10), mới được Chúa Cha ban cho, và chỉ lúc đó chúng ta mới thực sự ra khỏi tình trạng “rõ gần mà quá xa” Thiên Chúa trong đời sống đạo.
     Jorathe Nắng Tím

BỎ ĐẠO

Trung tuần tháng 7/ 2019 vừa qua, văn phòng báo chí toà thánh thông báo : Đức Thánh Cha Phanxicô rất đau buồn, vì chỉ trong năm 2018, đã có 216.078 người công giáo Đức tuyên bố bỏ đạo. Hiện nay có 23 triệu người công giáo trên 83 triệu dân số Đức. Chia sẻ nỗi buồn của vị cha chung, người viết ghi lại tâm tình đồng cảm, và một vài suy tư của mình trước hiện tượng bỏ đạo ngày càng nhiều trên thế giới.
Trước hiện tượng bỏ đạo “tập thể” và dồn dập, hội đồng giám mục Đức tỏ ra lo lắng và ráo riết làm việc để tìm ra những nguyên nhân đưa đến hiện tượng đáng buồn này. Đức Cha chủ tịch nêu ra ba nguyên nhân : vấn đề độc thân của linh mục, tình trạng giáo sĩ trị, và giáo lý về đạo đức tình dục.
Qủa thực, trong một xã hội mà khuynh hướng “vô thần lý thuyết” đang nhường chỗ cho “vô thần thực tiễn”, nghiã là người ta không chỉ vô thần trên giấy tờ, khi viết lý lịch, tự khai, nhưng vô thần trong toàn thể đời sống : từ suy nghĩ, lời nói, việc làm đến thái độ ứng xử, thao thức, ước mơ. Và các chủ nghiã thực dụng, hưởng thụ, hiện sinh đóng góp xây dựng nền tảng vững chắc của nếp nghĩ, nếp sống vô thần này.
Bên cạnh những người công khai từ bỏ Giáo Hội, chính thức tự gạch tên mình khỏi sổ bộ của giáo xứ, giáo phận như hơn hai trăm ngàn người công giáo Đức đã bỏ đạo, còn rất nhiều những người Công Giáo khác đã bỏ đạo cách khác “im hơi lặng tiếng”, âm thầm nhưng không vì thế mà kém phần dứt khoát, quyết liệt.
   Chúng ta cùng nhìn vào ba nguyên nhân đã và đang đưa đến hiện tượng bỏ đạo:
1.       Những sai phạm về luật độc thân nơi các linh mục ngày càng bị dư luận, truyền thông phanh phui, khai thác dữ dội trong nhiều năm qua làm không ít người nghĩ đến việc xóa bỏ luật độc thân, như một giải pháp hữu hiệu. Những người này đưa ra mẫu đời sống mục tử tương đối “bình an, ít sóng gió về tình dục” nơi các linh mục có gia đình như bên Giáo Hội Chính Thống, và Anh giáo. Tình trạng có gia đình, theo họ, tuy có ràng buộc, vướng bận vì trách nhiệm làm cha, làm chồng và không hoàn toàn tự do cho mục vụ, nhưng tránh được những lạm dụng tình dục cách này cách khác và những cám dỗ khó vượt qua khi ở một mình.
Những người này còn dựa vào đời sống có vợ con của các thánh tông đồ, trừ thánh Gioan vì còn trẻ, và cho đó là sự chọn lựa khôn ngoan của Đức Giêsu. Lý chứng của Giáo Hội khi chọn những người độc thân làm linh mục, vì Đức Giêsu, vị Thượng Tế Tối Cao là người độc thân không được nhóm này đón nhận như một lý chứng thuyết phục, bởi theo họ : nếp sống của các tông đồ mới thực là gương sống cần thiết và khả thi cho các linh mục.

2.      Tuy là một vấn nạn được bàn cãi, tranh luận từ bao nhiêu đời giáo hoàng, nhưng độc thân linh mục vẫn không được coi là “nguyên nhân lớn” gây ra hiện tượng bỏ đạo ngày càng đông. Trái lại, não trạng giáo sĩ trị mới thực là cái gai làm nhức nhối nhiều người.
Chủ nghiã “Giáo Sĩ trị” được hiểu nôm na là tình trạng giáo sĩ thống trị giáo dân bằng một đường lối độc tài, độc đoán, đôi khi khắc nghiệt dựa vào thần quyền. Nhưng giáo sĩ trị cũng không loại bỏ tình trạng giáo sĩ thống trị nhau, khi giáo sĩ có chức quyền đàn áp, khống chế các giáo sĩ kém cỏi, yếu thế khác. Chủ trương giáo sĩ trị được xây dựng và bành trướng quyền lực, ảnh hưởng bằng tạo ra và củng cố các cơ chế ở mọi mức độ trong sinh hoạt của Giáo Hội.  
    Đức thánh cha Phanxicô là vị giáo hoàng kịch liệt đả phá chủ nghiã giáo sĩ trị này. Theo Ngài : “Sự khốn nạn của chủ nghiã Giáo sĩ trị là một cái gì đó vô cùng tồi tệ ! Và nạn nhân của chủ nghiã này chính là dân chúng nghèo hèn và khiêm hạ, tức dân trông cậy vào Thiên Chúa… Chúa Giêsu đã không đem những con người khiêm hạ ấy ra để làm trò đùa, nhưng Ngài đi đến với các bệnh nhân, với những người nghèo, những người bị loại trừ, những người thu thế và các tội nhân… Thậm chí Ngài còn đi đến cả với những cô gái điếm. Cho tới tận hôm nay. Chúa Giêsu vẫn đang tiếp tục nói với chúng ta cũng như với những kẻ bị quyến rũ bởi chủ nghiã Giáo Sĩ trị rằng : Những tội nhân và những cô gái điếm sẽ bước vào Nước của Thiên Chúa trước các ngươi !” (Theo Radio Vatican, bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô ngày 13.12.2016, Lm. Đaminh Thiệu dịch - Nguồn : Hội Dòng Đaminh, Tam Hiệp).     
Cũng theo Đức Thánh Cha Phanxicô : chủ nghiã Giáo Sĩ trị đang đẩy nhiều người ra khỏi Giáo Hội, vì nó bóp méo hình ảnh Giáo Hội và Ngài công khai tuyên chiến với chủ nghiã nguy hiểm và tồi tệ này. Ngài còn nhấn mạnh : “Vấn đề này liên quan đến toàn thể Giáo Hội” và là vấn đề cấp bách đối với Giáo Hội.
Chúng ta không thể “vơ đũa cả nắm”, mà quên một số không nhỏ các linh mục thánh thiện, âm thầm tận tụy phục vụ dân Chúa trong khiêm tốn, nhưng cũng không thể chối cãi sức tàn phá kinh khủng của chủ nghiã Giáo Sĩ trị nơi một số linh mục chuyên quyền, hống hách, tiền bạc, phe cánh. Các vị này cạn kiệt tình mục tử, nên không sẵn sàng hy sinh mình vì đàn chiên, nhưng hy sinh đàn chiên vì mình. Các vị này cằn cỗi, khô héo lòng thương xót, nên đánh mất tâm hồn “hiền lành và khiêm nhường”, và trái tim “chạnh lòng thương” của Đức Giêsu đã ban cho các vị. Nơi các linh mục thuộc hàng ngũ “Giáo Sĩ trị”, tiền bạc, danh vọng, chức quyền, phe cánh, ảnh hưởng chiếm phần lớn cuộc đời, nên dễ hiểu khi đàn chiên các vị chăm sóc lần lượt bỏ đàn, giáo hữu bỏ nhà thờ, giáo dân bỏ giáo xứ, tín hữu bỏ niềm tin, dân Chúa bỏ Giáo Hội.
3.    Nguyên nhân sau cùng là giáo lý về đạo đức tình dục của Giáo Hội.
Trong một xã hội mà tất cả đều được phép, tất cả đều tự do, và không còn bất cứ cấm kỵ, cấm cản, cấm đoán nào có thể áp đặt trên con người, thì giáo lý về đạo đức tình dục của Giáo Hội bị coi là bức tường ngăn chặn bước tiến của xã hội, chủ trương thoái hoá, lạc hậu, đi ngược trào lưu khai phóng của thời đại. Vì thế, trước giáo lý vững chắc và thái độ kiên định của Giáo Hội trong những vấn đề như tự do phá thai, hôn nhân đồng tính, quyền tái hôn tôn giáo đối với người đã ly dị…, người ta khó chấp nhận và dễ dàng bất mãn, chống lại.
Rất nhiều phong trào chống Giáo Hội Công Giáo về giáo lý đạo đức tình dục, và hoạt động chống phá của các phong trào này ngày càng quyết liệt, dữ dội, và tất nhiên đã gây nhiều sóng gió ngay trong nội bộ Giáo Hội, khi nhiều người có trách nhiệm trong Giáo Hội bắt đầu có những dấu hiệu nghiêng ngả, nhượng bộ.
Vấn đề của chúng ta là trước hiện tượng bỏ đao ngày càng nhiều, chúng ta phải làm gì để chính mình không bị chao đảo, hoang mang, để rồi tự đầu hàng, qụy ngã, không nhất thiết vì hèn nhát, phản bội, nhưng vì áp lực của đám đông, và vì nhận ra chính mình cũng là nạn nhân như những người đã bỏ đạo. 
Trước hết, chúng ta cần biết : có nhiều khuynh hướng khác nhau trong phong trào bỏ Giáo Hội :
3.1                      Bỏ Giáo Hội, nhưng không bỏ Thiên Chúa ?
 Vì cho Giáo Hội là cơ chế nặng nề làm phát sinh nhiều ràng buộc rắc rối, nhiều khoản luật bất khả thi, nên một số chọn giải pháp “dung hoà” là bỏ Giáo Hội, như rời bỏ một bộ máy hành chánh, từ chối một tổ chức gây nhiều phiền phức, bực bội, nhưng không bỏ Thiên Chúa, vì bỏ Thiên Chúa là một chọn lựa nhiều rủi ro, có thể chuốc vào mình nhiều tai hoạ vô hình, nhất là phần rỗi đời sau.
Khuynh hướng này hiện rất ăn khách và được coi là “thời trang tôn giáo” khá thịnh hành, nhất là ở giới trẻ. Nhóm người này lý luận : tôn giáo là chuyện của mỗi người với Thiên Chúa, và Thiên Chúa biết rõ thiện chí muốn gặp gỡ Ngài của từng cá nhân, nên Giáo Hội, được xem như tổ chức trung gian sẽ không cần thiết. Và vì không cần thiết, nên không cần phải duy trì, gắn bó.
Khuynh hướng tin Chúa, nhưng từ bỏ vai trò trung gian của Giáo Hội đã phủ nhận hoàn toàn Giáo Hội là Thân Thể mầu nhiệm có Đức Giêsu là Đầu (x. 1 Cr 12,12-30), và “Ngài yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh” (Ep  5, 25), và mặc nhiên khuynh hướng này chỉ coi Giáo Hội là một tổ chức thuần trần thế, một cơ chế trần tục không hơn không kém.  
3.2                 Bỏ Giáo Hội, bỏ Đức Giêsu, nhưng không bỏ Thiên Chúa :
Vì Đức Giêsu với Giáo Hội là một, như Thân Thể duy nhất, nên người ta khó có thể tách rời Đức Giêsu, “Thiên Chúa làm người” ra khỏi Giáo Hội của Ngài. Trước bế tắc này, không giải pháp nào hay hơn là phủ nhận thiên tính của Đức Giêsu, chối bỏ Đức Giêsu là Thiên Chúa và là con người, mà chỉ nhận nhân tính của Đức Giêsu, nghiã là Đức Giêsu không là Thiên Chúa, nhưng chỉ là con người.
Nhờ giải pháp này mà việc chối bỏ Giáo Hội không làm mất “chiếc phao phần rỗi” đã được “cầu chứng”, “đặt sẵn” ở Thiên Chúa, một thiên chúa chung chung, tổng quát, không có mặt trong lịch sử nhân loại như Thiên Chúa trong Đức Giêsu, Thiên Chúa của Đức Giêsu, Thiên Chúa là Đức Giêsu mà người tín hữu công giáo tôn thờ, phụng sự trong Giáo Hội của Ngài.
3.3            Không bỏ cũng không theo Giáo Hội:
Khuynh hướng sau cùng là “dở dở ương ương, không nóng không lạnh, hâm hâm dễ ói”. Đây là hình ảnh những người công giáo bỏ đạo trong đời sống thực tế : họ không chống đối Giáo Hội, nhưng thờ ơ, lãnh đạm, và ngại ngùng khi phải nhận mình là Kitô hữu. Đời họ chỉ hai lần đến nhà thờ, mà cả hai lần họ đều không biết, không thể tự mình quyết định : rửa tội khi vào đời, và làm phép xác khi lià đời.
Con số giáo dân “hữu danh vô thực” này đã trở thành vấn đề lớn của Giáo Hội, bằng chứng là công cuộc “tái truyền giáo”, nghiã là “truyền giáo lại cho những người đã được rửa tội” đang là ưu tư và hoạt động hàng đầu của Giáo Hội toàn cầu.
Thực ra, cám dỗ bỏ Đức Giêsu, và Giáo Hội của Ngài là cám dỗ đã có từ những ngày đầu khi Đức Giêsu quy tụ các tông đồ là rường cột của Giáo Hội. Bằng cớ là khi Đức Giêsu nói với những người Do Thái : “Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại ngày sau hết” (Ga 6,53-54), thì họ “tranh luận sôi nổi” và nhao nhao phản đối Đức Giêsu. Nhưng không chỉ những người Do Thái đã cho là chướng tai, mà chính các môn đệ của Đức Giêsu đã nói với Ngài : “Lời này chướng tai qúa ! Ai mà nghe nổi ?” (Ga 6,60). Và Đức Giêsu biết : nhiều môn đệ đã muốn bỏ Ngài, vì giáo lý của Ngài qúa khó nghe, qúa khó chấp nhận : “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư ?” (Ga 6, 61), và với nhóm Mười Hai, sau khi thấy “nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa” (Ga 6,66), Ngài đã nói : “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi sao ?” (Ga 6,67).
Đó là sự thực đau lòng, nhưng là sự thực đã xẩy ra ngay khi có mặt Đức Giêsu bằng xương bằng thịt, bởi giáo lý khó nghe, khó chấp nhận của Ngài. Điều này nói lên nguyên nhân làm nhiều người ngày xưa cũng như ngày nay và cho đến tận thế đã, đang và sẽ bị cám dỗ bỏ đạo, khi giáo lý của đạo ngăn cản lối sống dễ dãi, buông thả, hưởng thụ của họ, cũng như giáo lý của đạo đòi họ phải vượt qua những gì “cân, đo, đong, đếm, và thí nghiệm được” của khoa học để đạt đến ngưỡng cửa của mầu nhiệm, mà Đức Giêsu đã khẳng định khi nói về những người muốn bỏ Ngài mà đi, vì giáo lý khó nghe của Ngài : “Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống” (Ga 6,53).
Thánh Gioan Tông Đồ trong thư thứ nhất cũng đã đặt tội lỗi là nguyên nhân cắt đứt chúng ta với Thiên Chúa : “Ai phạm tội, kẻ ấy là người của ma qủy, vì ma qủy phạm tội từ lúc khởi đầu” (1 Ga 3,8).
Cũng như hôm nay, nhiều người bỏ đạo, không vì giáo lý của đạo bị coi là sai lạc, phi lý, cho bằng giáo lý của đạo ngăn cản đời sống bê tha, dung túng, sa đọa của họ, và vì giáo lý đó, họ phải mang vào mình mặc cảm tội lỗi khi phạm tội, khi đi ngược đòi hỏi của giáo lý, nên tốt hơn là bỏ đạo để không còn bị giáo lý làm phiền, làm khó, làm khổ.
Như đã trình bầy ở trên : một nguyên nhân khác dẫn đến bỏ đạo chính là phủ nhận “Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người”. Nguyên nhân này cũng đã là nguyên nhân làm nhiều người bỏ đạo thời các thánh tông đồ. Bằng chứng là cũng thánh Gioan tông đồ đã cảnh báo tín hữu phải đề phòng những kẻ phản Kitô, nghiã là chống lại Đức Giêsu là “Thiên Chúa làm người” : “Ai là kẻ dối trá, nếu không phải là kẻ chối rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô ? Kẻ ấy là tên phản Kitô, là kẻ chối Chúa Cha và Chúa Con. Ai chối Chúa Con, thì cũng không có Chúa Cha ; kẻ tuyên xưng Chúa Con thì cũng có Chúa Cha” (1 Ga 2,22-23).
Theo thánh Gioan : việc đón nhận Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, Thiên Chúa làm người là đòi hỏi rất quan trọng để bước đi trong ánh sáng, nghiã là để sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa, bởi không chấp nhận Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa, người ta cũng không chấp nhận Chúa Cha là Thiên Chúa, và tất nhiên : Thiên Chúa không hiện hữu. Nói cách khác, khi từ chối mầu nhiệm Nhập Thể của Đức Giêsu, người ta đương nhiên khước từ mầu nhiệm Thiên Chúa.
Nguyên nhân thứ hai này trùng khớp cho những ngày đầu của Giáo Hội, và Giáo Hội hôm nay, cũng như mãi sau này : bỏ Giáo hội vì phủ nhận Đức Giêsu là “Thiên Chúa làm người”.
Nguyên nhân kế tiếp đưa đến bỏ đạo ở mọi thời chính là thiếu yêu thương, không bác ái, vắng bóng lòng thương xót, bao dung. Qủa thực, phần đông người ta đã bỏ đạo vì không thấy các môn đệ của Đức Giêsu yêu thương nhau như Đức Giêsu căn dặn ; không được đón nhận với tình yêu bao dung, thương xót bởi những con người trong Giáo Hội ; không được đối xử tử tế, huynh đệ trong lòng Giáo Hội ; không có chỗ đứng trong nhà Giáo Hội và bị coi là kẻ xa lạ, người ngoài cuộc, kẻ bị khai trừ, lên án bởi chính anh em mình trong gia đình Giáo Hội. Và bóng tối ganh ghét, đố kị cứ ngạo nghễ đe dọa như những đám mây dầy đặc trên đầu : “Những ai ghét anh em mình thì ở trong bóng tối và đi trong bóng tối mà chẳng biết mình đi đâu, vì bóng tối đã làm cho mắt người ấy ra mù loà” (1 Ga 2,11).   
4.     Tóm lại, thái độ của chúng ta trước hiện tượng nhiều anh em bỏ đạo, bỏ nhà Giáo Hội ra đi thiết tưởng sẽ phải là :
4.1                      Xác tín Đức Giêsu yêu Giáo Hội của Ngài như phu quân yêu hiền thê, nên không thể tách rời Đức Giêsu ra khỏi Giáo Hội của Ngài. Và điều rất quan trọng là Đức Giêsu không ngừng “thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt Người, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền” (Ep 5,26-27).
     Khi xác tín điều này, chúng ta sẽ nhận ra :
·      Giáo Hội gồm những con người yếu đuối, tội lỗi và luôn được Đức Giêsu kêu gọi nên tốt hơn, thánh thiện hơn, xứng đáng hơn mỗi ngày.
·      Đức Giêsu yêu Giáo Hội, yêu những con người yếu đuối trong Giáo Hội, và bảo đảm việc “thánh hoá, thanh tẩy” những con người bất xứng này của Giáo Hội, để Giáo Hội được trở nên thánh thiện, tinh tuyền .
Điều này giúp chúng ta không thất vọng trước những yếu đuối của Giáo Hội ; không bất mãn, bất trung với Giáo Hội, khi người của Giáo Hội cư xử bất xứng với đấng bậc của mình, bất công với đồng đạo, bất chính với xã hội, vì tin tưởng tuyệt đối vào ơn đổi mới của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội. Chúng ta sẽ không lên án, nhưng cầu nguyện với niềm tín thác ở Đức Giêsu và Lời Ngài hứa : “Thầy đây, đừng sợ !” (Mc 6, 50), và “Thầy ở cùng anh em  mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
4.2       Xác tín Đức Giêsu là “Thiên Chúa làm người” và Giáo Hội là nhà của Thiên Chúa giữa nhân loại, ở đó, “Thiên Chúa làm người” cư ngụ, để con người được trở  nên “đồng hình đồng dạng” với Thiên Chúa.
Với xác tín này, chúng ta đón nhận những thiếu sót, khuyết điểm, lầm lỗi, tội lụy hằng ngày xẩy ra trong Giáo Hội, trong đó có yếu đuối, tội lỗi của chính chúng ta, bởi tất cả những con người thuộc về Giáo Hội đều đang trên đường theo Đức Giêsu để được hoán cải, đổi mới, thanh tẩy ; đang trên hành trình tiến về Chân - Thiện - Mỹ tuyệt đối là Thiên Chúa ; đang ngày đêm khẩn cầu lòng xót thương, ơn tha thứ để được cứu độ.
Vì thế, nếu tội lỗi là nguyên nhân đưa đến bỏ đạo, thì tinh thần và thái độ thống hối sẽ giúp chúng ta yêu mến và gắn bó với Giáo Hội hơn, vì “nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính sẽ tha tội cho chúng ta và thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính” (1 Ga 1,9), bởi “Chính Đức Giêsu Kitô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta, không những tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa” (1 Ga 2, 2). 
4.3       Xác tín sức sống của Giáo Hội là Yêu Thương :
Giáo Hội sẽ chết, nếu Giáo Hội không yêu thương ; Giáo Hội sẽ bị tiêu diệt, nếu con cái của Giáo Hội từ chối yêu thương nhau ; Giáo Hội sẽ sụp đổ, nếu Đức Giêsu là Tình Yêu và là Đầu của Thân Thể mầu nhiệm là Giáo Hội không còn chỗ đứng, và tất nhiên người ta sẽ bỏ Giáo Hội hết, vì không ai có thể sống trong hoả ngục hận thù, ghen ghét, bạo lực, diệt vong. Thánh Gioan đã qủa quyết : sự chết là hậu qủa của ghen ghét, hận thù, nên “kẻ không yêu thương, thì ở lại trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân. Và anh em biết : không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì : đó là Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em” (1 Ga 3,14-16).
Như thế, tình yêu là căn tính, dấu chỉ và là điều kiện để Thiên Chúa hiện diện, bởi “Đâu có tình yêu thương, ở đó có Thiên Chúa”, trái lại, Thiên Chúa không có mặt nơi ghen ghét, hận thù. Thế nên, Giáo Hội sẽ không giữ được con người mà bản tính là khao khát tình yêu, nếu Giáo Hội vắng bóng Thiên Chúa là Tình Yêu, nhưng điều đó sẽ không thể xảy ra, vì có Đức Giêsu, Đấng “yêu thương  Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh” (Ep 5,25) ; Ngài còn “nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh” (Ep 5,29), vì “chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người” (Ep 5,22).
4.4       Xác tín cuối cùng là “Đấng ở trong chúng ta mạnh hơn kẻ ở trong thế gian” (1 Ga 4,4).
 “Kẻ ở trong thế gian” là những kẻ không thuộc về Thiên Chúa và đang ra sức lôi kéo chúng ta ra khỏi Giáo Hội, từ bỏ Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa làm người.  Đó là những ngôn sứ giả, những kẻ phản Kitô, những cánh tay nối dài của Satan dối trá, ganh ghét, bạo lực, chuyên gieo rắc chết chóc.
Thánh Gioan đã chỉ cho chúng ta cách nhận ra ai là “kẻ ở trong thế gian”, kẻ phản Kitô, kẻ chống lại Giáo Hội, cũng là cách phân định thần khí, vì có “thần khí dẫn đến sự thật và thần khí làm cho sai lầm” (1 Ga 4,6), khi ngài viết : “Anh em đừng cứ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy cân nhắc các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không… Căn cứ vào điều này, anh em sẽ nhận ra thần khí của Thiên Chúa : thần khí nào tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến và trở nên người phàm, thì thần khí ấy bởi Thiên Chúa ; còn thần khí nào không tuyên xưng Đức Giêsu, thì không bởi Thiên Chúa, đó là thần khí của tên phản Kitô” (1 Ga 4,1-3).
Vấn để đã rõ : tất cả đều phải bắt đầu, và quy hướng về một mình Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người, Đấng Cứu Độ duy nhất, mà “nhờ Người, với Người và trong Người” Thiên Chúa được chúc tụng, vinh danh, và toàn thể nhân loại được cứu rỗi.  
Lạy Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chọn Giáo Hội làm hiền thê yêu dấu. Xin thêm đức tin cho chúng con những khi chúng con chao đảo, hoang mang, hoảng sợ trước “phong ba, bão táp” dữ dội của Satan như muốn nuốt trửng, nhận chìm con thuyền Giáo Hội, mà trên đó có chúng con là những tội nhân đang làm méo mó dung mạo của Giáo Hội vì tội riêng mình. Xin giữ gìn chúng con khỏi nỗi thất vọng đắng đót, chua cay của những người con chưa “toàn tâm toàn ý” yêu thương Giáo Hội là Mẹ mình, và giải thoát chúng con khỏi cám dỗ nguy hiểm hơn tất cả mọi cám dỗ là bỏ đạo, bỏ Chúa. Và xin nhắc bảo chúng con trong thử thách nặng nề lời tuyên xưng chất chứa ân tình và tín thác của thánh tông đồ Phêrô : “Lạy Thầy, bỏ Thầy, chúng con biết theo ai ? Vì chỉ  Thầy mới có Lời ban sự sống đời đời” (Ga 6,68).
Jorathe Nắng Tím