Trên
hành trình dài Trông Đợi được vào Đất Hứa, dân Thiên Chúa đã luôn được Thiên
Chúa ban cho những nhà lãnh đạo không chỉ để hướng dẫn, răn dậy, cảnh báo, mà
còn để năn nỉ, van xin Thiên Chúa đừng nổi cơn thịnh nộ trừng phạt dân Ngài.
Suốt
hành trình Vượt Qua cho đến khi vào Đất Hứa, và còn tiếp nối mãi cho đến Tân Ước,
lịch sử của dân Chúa là chuỗi dài những biến cố vui buồn, những trung tín, phản
bội, những mạnh mẽ, yếu nhược, những thăng trầm khôn lường với những nhà lãnh đạo
cũng mang đủ tính cách đa diện và phức tạp. Ở đây, chúng ta tập trung vào con
người lãnh đạo của Môsê, người mà Thiên Chúa chọn và được khen là “người hiền
lành, khiêm nhường nhất trên đời” (Ds 12,3).
Môsê
đã lãnh đạo dân trong một bối cảnh vô cùng khó khăn : đưa dân trốn khỏi đất
nô lệ Ai Cập, và vất vả cùng dân thực hiện hành trình trông đợi Lời Hứa “được
vào miền đất chảy sữa và mật” suốt bốn mươi năm.
Lãnh
đạo ở hoàn cảnh không lãnh thổ ; lãnh đạo một dân trên đường vượt sa mạc
thiếu thốn đủ thứ, mà tâm trạng còn luyến tiếc những ngày tháng tuy làm nô lệ
khốn khổ nhưng có bánh có thịt dư thừa ở Ai Cập ; lãnh đạo một dân cứng đầu
cứng cổ hay càm ràm, than thở, kêu trách, lại kiêu căng, phản bội, Môsê đã
không lãnh đạo như những lãnh tụ khác,
nghiã là dùng quyền mà thống trị, dùng uy mà cai qủan, nhưng ông đã hoàn toàn dựa
vào Thiên Chúa Giavê và khiêm tốn đứng chung hàng ngũ và chịu chung số phận với
dân mình.
1. Môsê
đã lãnh đạo bằng hoàn toàn trông cậy vào Thiên Chúa Giavê qua Lời Hứa của
Ngài :
Được
Thiên Chúa chọn từ thân thế “không có gì đáng nói”, với khả năng được coi là “dưới
trung bình”, Môsê biết mình bất xứng, bất tài khi thưa với Thiên Chúa : “Con
là ai mà dám đến với Pharaô và đưa con cái Ítraen ra khỏi Ai Cập?” (Xh 311),
nên Môsê đã hoàn toàn trông cậy vào Lời của Giavê Thiên Chúa hứa với ông :
“Ta sẽ ở với ngươi” (Xh 3,12), và dấu chỉ cho ông biết ông được Thiên Chúa chọn
chính là trên đường Trông Đợi, dân mà ông đưa ra khỏi Ai Cập sẽ được phúc thờ
phượng Thiên Chúa, Đấng đã sai ông đi giải phóng họ. Và suốt hành trình Hy Vọng,
trông đợi vào Đất Hứa ấy, Môsê đã luôn sống Lời Hứa của Thiên Chúa Giavê.
Sống
Lời Hứa “Ta sẽ ở với ngươi”, Môsê đã không bao giờ rời xa Thiên Chúa, nhưng tìm
mọi dịp để được “ở với Thiên Chúa, lắng nghe Thiên Chúa dậy bảo”, và trước những
ngỗ nghịch, ngang tàng, bướng bỉnh, bất mãn nổi loạn của dân, như ở Mara, vì
không thể uống được nước, vì nước ở đó đắng, họ đã kêu ca, trách móc ông :
“Chúng tôi sẽ lấy gì mà uống?” (Xh 15,24), hay ở sa mạc Xin, giữa Êlim và
Xinai, “toàn thể cộng đồng con cái Ítraen kêu trách ông Môsê và ông Aharon
: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Ai Cập, khi còn ngồi bên nồi
thịt và ăn bánh thỏa thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó,
mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây” (Xh 16,2-3),
Môsê đã luôn “kêu lên Đức Chúa, và Đức Chúa chỉ cho ông một khúc gỗ. Ông thả xuống
nước và nước hoá ra ngọt” (Xh 15,25), và Đức Chúa phán với ông Môsê : “Này,
Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các ngươi ăn” (Xh 16,4).
Sống
Lời Hứa của Giavê, Môsê xác tín : Ítraen là dân của Lời Hứa, dân của Trông
Đợi, nên chỉ Lời của Thiên Chúa Giavê mới bảo đảm thành công cho công cuộc Vượt
Qua, chỉ Lời Thiên Chúa hứa mới đưa dân đến đích của hành trình Hy Vọng, và suốt
đời làm lãnh đạo, Môsê đã một lòng một dạ tín thác vào Lời Hứa “Ta sẽ ở cùng
ngươi” của Thiên Chúa, và vì có Thiên Chúa ở cùng, Môsê đã không sợ dân, mị dân,
nhưng chuyển đạt Thánh Chỉ của Chúa cho dân, và thẳng thắn cảnh cáo, răn đe dân, khi dân đi ngược Thánh
Chỉ của Giavê Thiên Chúa (x. Xh 19-20).
2. Môsê
đã lãnh đạo bằng chia sẻ tất cả với dân và chịu chung số phận của dân :
Không
như các lãnh tụ khác với chế độ đặc biệt từ ăn uống đến ăn ở ; không như
các lãnh chúa bắt thần dân phải hầu hạ, phục dịch tận răng, Môsê là người khiêm
hạ phục vụ : phục vụ từ tâm tình yêu thương và xót xa yếu đuối của dân,
khi phủ phục nài xin Thiên Chúa tha thứ những lỗi lầm, tội lỗi của dân (x. Xh
34,8-9) đến tâm tình cùng thống hối, ăn năn với dân và nhận hết tội cũng
như hình phạt về mình, vì thương dân khi thân thưa với Thiên Chúa : “Than
ôi, dân này đã phạm một tội lớn! Họ đã làm cho mình một tượng thần bằng vàng!
Nhưng giờ đây, ước gì Ngài miễn chấp tội họ! Bằng không, thì xin Ngài xóa tên
con khỏi cuốn sách Ngài đã viết” (Xh 32,32).
Tuy
được Thiên Chúa chọn làm lãnh đạo dân Ngài với sứ vụ rất khó khăn, nhưng Môsê
đã không tư phụ nghĩ rằng mình thủ đắc Thiên Chúa, hoặc dựa hơi Thiên Chúa, ỷ
mình là người được Thiên Chúa nâng lên hàng khanh tướng để bóc lột, đàn áp,
hành hạ dân, hay lên mặt hống hách, cửa quyền, độc đóan, độc tài, xây dựng thế
lực, quần thần, lính lác để bảo vệ ngai vàng, bảo toàn ngôi báu. Trái lại, như
bao người dân trên đường Trông Đợi khác, Môsê đã sống đời người lữ hành trên đường
hy vọng vào Lời Hứa của Giavê Thiên Chúa, Lời Hứa với toàn dân, Lời Hứa với các
tổ phụ, cha ông, Lời Hứa cho muôn muôn thế hệ.
3. Sự cần thiết của lãnh đạo trên hành trình
Trông Đợi :
Sách
Xuất Hành ghi rõ lý do dân đã rủ nhau đúc bò vàng để thờ : “Dân thấy ông
Môsê lâu qúa không xuống núi, bèn tụ họp bên ông Aharon và nói với ông : Xin
ông đứng lên, và làm cho chúng tôi một vị thần để dẫn đầu chúng tôi, vì chúng
tôi không biết chuyện gì đã xảy ra cho cái ông Môsê này, là người đã đưa chúng
tôi lên từ đất Ai Cập” (Xh 32,1).
Môsê
lên núi gặp Thiên Chúa, và vì thời gian khá lâu chưa xuống núi, dân chúng đã
hoang mang, lại thêm khuynh hướng xấu như Aharon đã nói về dân với
Môsê khi Môsê nổi giận vì Aharon đã
cùng dân đúc bò vàng : “Xin ngài chớ bừng bừng nổi giận ; chính ngài
biết : dân này có khuynh hướng xấu” (Xh 32,22).
Sự
vắng mặt của Môsê đã phần nào làm dân mất tinh thần, khi không biết mình sẽ đi
đâu, sẽ làm gì, nhất là không có Môsê, dân không còn nghĩ đến Giavê Thiên Chúa
là Đấng đã dẫn họ ra hỏi Ai Cập. Ngay cả Aharon là phụ tá của Môsê cũng không đủ
bản lãnh để hướng dẫn dân theo đúng Thánh Chỉ của Thiên Chúa, và không đủ cương
nghị để cầm cân nẩy mực như một nhà lãnh đạo “một tay nắm chặt tay Thiên Chúa,
một tay nắm chặt tay dân”. Trái lại, chính Aharon đã để dân lôi cuốn và đứng ra
tổ chức công trình đúc bò vàng và lập bàn thờ trước bò vàng (x. Xh 32,2-6).
Thưc
vậy, Thiên Chúa cần người lãnh đạo dân Ngài trên đường trông đợi Lời Hứa. Nhưng
Ngài cần những lãnh đạo biết lắng nghe, có lòng khiêm tốn, thương xót và có
trách nhiệm, bởi thiếu những người lãnh đạo thuộc về Thiên Chúa biết lắng nghe
Ngài, những người lãnh đạo khiêm hạ dám đứng chung hàng ngũ với dân, những người
lãnh đạo có trách nhiệm và giầu lòng xót
thương sẵn sàng chịu chung số phận của dân, dân Chúa trên đường trông đợi Lời Hứa
sẽ rơi vào tình trạng thay vì “hiền lành và khiêm nhường” cùng mọi người đi tìm
Thiên Chúa lại kiêu căng, ngạo mạn, kỳ thị, tẩy chay người khác, vì nghĩ mình độc
quyền “nắm gọn” Thiên Chúa ; thay vì chuyên chăm sống Lời Hứa lại bàng quan, nhởn
nhơ, phất phơ theo kiểu “sống sao cho đẹp đội hình”, nặng phần trình diễn, phô
trương thành qủa, biểu dương lực lượng ; thay vì phấn đấu vượt qua thử
thách, lại đi tìm cái dễ, cái nhàn ; thay vì hy vọng lại thất vọng vì nhiều
thách đố, lực cản ; thay vì bước đi như người lữ hành hy vọng tiến về Lời
Hứa, lại ươn lười, hưởng thụ bằng dừng chân, bám trụ, cắm rễ, dựng pháo đài
ngàn năm, xây tháp ngà vĩnh cửu.
Vâng,
Thiên Chúa ban cho dân Ngài trên hành trình trông đợi những người lãnh đạo để
dân Chúa luôn nhớ mình là đoàn lữ hành còn đang trên đường về Đất Hứa. Người
lãnh đạo tốt lành của Thiên Chúa không thể bỏ quên sứ vụ nhắc nhở dân căn tính
trông đợi của họ, bởi rời xa căn tính này, dân sẽ hoang mang, mất tinh thần như
Ítraen xưa đã mất phương hướng trong sa mạc là Lời Hứa của Thiên Chúa Giavê. Vì
thế, họ đã đúc bò vàng làm thần dẫn đầu họ (x. Xh 32,23-24).
Xin
Chúa ban cho chúng con những nhà lãnh đạo thánh đức biết lắng nghe Chúa và gắn bó
yêu thương, chia sẻ, chịu đựng với dân trong tất cả trên hành trình trông đợi
ngày giờ Chúa đến trong vinh quang.
Jorathe
Nắng Tím