Tìm kiếm Blog này

Thứ Sáu, 15 tháng 5, 2020

NGƯỜI TRẺ VÀ ĐỨC TIN (6)


     ĐỨC MARIA, GƯƠNG MẪU CỦA NGƯỜI KITÔ HỮU ĐÍCH THỰC
Khuynh hướng “của người phúc ta” hay “khoán người khác làm thay mình” là khuynh hướng được phần đông ưa chuộng. Ngay cả trong đời sống thiêng liêng, trên đường “trở nên hoàn thiện”, người Kitô hữu cũng không tránh khỏi khuynh hướng rất quyến rũ và tiện ích này.
Khuynh hướng ấy tàng ẩn trong ý nghĩ: chuyện nên thánh là chuyện của nhà tu, chuyện sống thánh thiện là chuyện của những con người tận hiến cả đời cho Chúa như các cha, các sơ, các thầy, các đệ tử, các chủng sinh…, cũng như việc truyền giáo, công tác loan báo Tin Mừng là sứ mệnh của hàng giáo phẩm, hàng giáo sĩ, tu sĩ, nên chẳng việc gì đến chúng ta, những người giáo dân tép riu, vô danh tiểu tốt, thấp cổ bé miệng, chưa kể còn là tội đồ, tội lỗi, tội nhân, chiên hoang, chiên lạc, chiên “nhiều chuyện rối rắm” trong Giáo Hội.
Khuynh hướng ấy còn kín đáo ẩn nấp trong ý nghĩ “xin các cha, các sơ cầu thay nguyện giúp”, để mình khỏi “mất giờ, mất công” cầu nguyện.
Khuynh hướng ấy cũng bàng bạc, lơ lửng trong những cách hô to, hét lớn trước công trình mà những người “khiêm nhường im tiếng” khác đã vất vả làm nên để tôn vinh Chúa, theo đúng kiểu “của người phúc ta”.
Khuynh hướng ấy đôi khi xuất hiện rất nhanh trong những phản bác, phản biện “nẩy lửa, vang dội, ấn tượng” giữa cộng đồng, như những “xác quyết, tuyên xưng” đức tin của người khác, chứ không phải đức tin của mình.
Tắt một lời, chúng ta, tuy là người có đạo, mang danh Kitô hữu, nhưng sống như một nhà kinh doanh buôn bán, đầu tư “danh nghiã có đạo”, chứ không tích cực sống đạo như danh xưng Kitô hữu: người say mê Đức Kitô, người có Đức Kitô, người thuộc về Đức Kitô, người mang Đức Kitô cho người khác.    
Thực vậy, không hiểu từ bao giờ, tôi cũng đã nghĩ như vậy và sống lơ mơ kiểu “lưa thưa tơ liễu buông mành” như người khách “không lạ mà cũng không thân” ra ra vào vào, đi đi lại lại trong Giáo Hội với bảng tên “Kitô Hữu”, mà không biết rõ Kitô hữu là ai và phải làm gì để đích thực là Kitô hữu.
Như các bạn trẻ, tôi cũng khổ sở đi tìm một mẫu gương lý tưởng người Kitô hữu đích thực ít nhất để biết và chiêm ngắm; tôi cũng băn khoăn, ray rứt khi thấy mình sống không hết mình với danh hiệu Kitô hữu, nhưng nửa vời, nửa nạc nửa là nguyên nhân làm vơi dần nhiệt tình, nhiệt huyết “đi đạo” trong tôi.
Cho đến một ngày của tháng năm, cũng như hôm nay của tháng năm này, tôi khám phá dung nhan của Đức Maria, Mẹ Đức Giêsu trong Tin Mừng, và thật rồi, đây chính là gương mẫu lý tưởng của người Kitô đích thực mà tôi và Bạn, chúng ta cần tìm đến chiêm ngắm và noi theo.  
1.   Đức Maria là người Kitô hữu đích thực khi để Thiên Chúa làm đầy đời mình:
Quyền sở hữu thân xác và tinh thần là quyền bất khả xâm phạm của mỗi người, nên khi xâm phạm  thân xác hoặc tinh thần người khác, chúng ta chịu trách nhiệm rất nặng nề trước pháp luật và lương tâm. Vì thế, khi dâng hiến cho ai thân xác, để ai đi vào tâm hồn, chúng ta thực hiện một chọn lựa rất quan trọng, vì là chọn lựa dấn thân quyết liệt, chọn lựa tận hiến, chọn lựa trao dâng tất cả và trọn vẹn.
Khi được chọn làm người Kitô hữu đầu tiên ở giây phút sứ thần Gabrien báo tin Mẹ thụ thai Đức Giêsu, do quyền phép Chúa Thánh Thần, Mẹ đã sẵn sàng làm trống trải, trống rỗng đời mình để một mình Đức Giêsu chiếm hữu, làm đầy đời Mẹ bằng từ bỏ tất cả những gì thuộc về mình, như ý riêng, chương trình riêng, kế hoạch riêng, mơ ước riêng, thời gian riêng, hoàn cảnh riêng, công việc riêng… Và kể từ giây phút làm người Kitô hữu  đầu tiên và tuyệt vời ấy, Mẹ đã không còn gì là riêng tư, không còn gì là riêng biệt, không còn gì là của riêng mình cả ngoài thân xác lẫn trong tâm hồn, ngoài một mình Đức Giêsu mà Mẹ âu yếm cưu mang.
Thực vậy, để trả lời Xin Vâng với Thiên Chúa, qua trung gian sứ thần Gabrien (x. Lc 1,26-38), Đức Maria đã để Thiên Chúa chiếm hữu đời mình và làm đầy đời mình bằng chính Thiên Chúa. Đó là đòi hỏi thứ nhất để trở thành người Kitô đích thực.
2.    Đức Maria là người Kitô hữu đích thực, khi đặt để  trọn vẹn đời mình vào công trình của Thiên Chúa, chứ không áp đặt Thiên Chúa vào công trình của mình:
Trước khi sứ thần Gabrien đến gặp và báo tin: Thiên Chúa muốn Mẹ làm mẹ của Đức Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa sẽ nhập thế, nhập thể, Đức Maria đã có chương trình riêng cho đời mình, đó là giữ mình đồng trinh. Mẹ đã cùng thánh Giuse đồng ý sống một đời đôi bạn đồng trinh, dù bên ngoài là vợ chồng như đòi hỏi của xã hội, như lời trình bày của Mẹ cùng sứ thần: “Việc ấy xẩy ra thế nào được, vì tôi không biết đến việc vợ chồng” (Lc 1,34). Điều này chính thánh Giuse cũng làm chứng qua việc ngài toan tính bỏ đi cách kín đáo, vì “trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,19), nhưng khi Thiên Chúa đề nghị Mẹ cộng tác trong chương trình mới của Ngài, mời gọi Mẹ hợp tác với Ngài thực hiện công trình Nhập Thể Cứu Chuộc của Con Thiên Chúa, Mẹ đã sẵn sàng đặt để trọn vẹn đời mình vào công trình của Thiên Chúa, đặt để tất cả đời mình dưới sự sắp xếp của Thiên Chúa, đặt để toàn thân mình theo kế hoạch và đường lối của Thiên Chúa, mà không ngần ngại, hay do dự, nhưng dứt khoát tự nguyện từ bỏ chương trình, kế hoạch riêng của mình. 
Khi đặt để đời mình hoàn toàn dưới sự sắp đặt của Thiên Chúa trong kế hoạch của Ngài, Đức Maria đã không như chúng ta áp đặt, lèo lái, đẩy đưa Thiên Chúa để Ngài làm theo ý chúng ta, đi theo đường hướng con người của chúng ta, chiều theo tính toán nhân loại của chúng ta.
Đó là thái độ kèo nài của chúng ta khi cầu nguyện, thái độ giận dỗi của chúng ta khi xin mà Chúa không nhận lời, thái độ “mặc cả” của chúng ta khi phụng sự Chúa, thái độ so đo, tính toán của chúng ta khi phục vụ anh em.
Thực vậy, người Kitô hữu đích thực như Đức Maria chính là người đặt Thánh Ý Thiên Chúa trên tất cả mọi sự, và say mê tìm kiếm thực hiện Thánh Ý mọi nơi, mọi lúc, trong bất cứ tình huống, hoàn cảnh nào. Bởi thế, không có Kitô hữu đích thực, nếu Thánh Ý bị xếp xuống hàng thứ yếu, phụ thuộc; không có Kitô hữu như lòng Chúa mong ước, nếu Thiên Ý chỉ được đón nhận khi phù hợp, đồng hành với ý riêng, cũng như không có Kitô hữu thánh thiện khi Ý Muốn của Thiên Chúa bị từ chối, khước từ, tránh né khi trái ý, nghịch chiều, so le với ý mình.
3.   Đức Maria là người Kitô Hữu đích thực, khi liên lỷ sống ân tình với Thiên Chúa:
Đức Maria là người Kitô hữu đầy Thiên Chúa, nên không sự gì thuộc về Thiên Chúa mà Mẹ không giữ trong lòng, như Tin Mừng đã ghi lại biến cố Đức Giêsu ở lại trong đền thờ Giêrusalem, không theo cha mẹ về sau những ngày hành hương mừng lễ Vượt Qua làm cha mẹ Ngài hoảng hốt đi tìm. “Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và Mẹ Người nói với Người: Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” Người đáp: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao? Nhưng ông bà không hiểu lời Người nói. Sau đó Người đi xuống cùng  với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 2,48-51).
Hình ảnh người mẹ cực lòng cùng cha đi tìm con, nhưng khi tìm thấy rồi, thì con lại cho chuyện cực lòng đi tìm ấy không quan trọng, vì “Con còn có bổn phận ở nhà Thiên Chúa Cha”, một công việc chiếm vị thế  ưu tiên, hệ trọng hơn nhiều.
Chúng ta nhận thấy sự thánh thiện của Đức Mẹ qua thái độ khiêm tốn, đằm thắm trước thánh ý Thiên Chúa được diễn tả qua việc “hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng”.
Ghi nhớ, lưu giữ lời nói, kỷ niệm, hình bóng ai trong tâm hồn là muốn người ấy sống mãi trong lòng mình, giữ mãi ân tình với người ấy trong trái tim; là liên lỷ gắn bó, có mặt với người ấy trong đời sống, sinh hoạt; là đắm đuối say mê và thiết tha yêu thương đối tượng tuyệt vời mình tôn thờ. Vì thế, ta sẽ chỉ giữ trong tim những gì thuộc về người mình thương, chỉ để sống và lớn lên trong tâm hồn những kỷ niệm với người mình yêu, chỉ làm cho trở nên bất diệt hình ảnh người mình thần tượng. Trái lại, không yêu thương, không say đắm, ta không chỉ gạt bỏ đối tượng, mà còn xóa hết dấu tích liên quan đến đối tượng, để khỏi bận tâm, nặng lòng .
Đức Maria đã sống từng giây phút đời mình ân tình với Thiên Chúa, để tất cả những gì liên quan đến Ngài, những người thuộc về Ngài, những công việc Ngài làm đều được Mẹ ghi nhớ đầy đủ và trọn vẹn, như ân tình đầy tròn, không một phút phôi pha, không một giây vơi cạn.
Chiêm ngắm Đức Maria hôm nay giữa tháng năm của Mẹ, chúng ta được cùng  Mẹ khám phá căn tính Kitô hữu của mình, một căn tính không như bất cứ căn tính nào, vì mang Đức Giêsu Thiên Chúa, có Đức Giêsu Đấng Cứu Độ, trở nên Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Căn tính “Giêsu” ấy cất bổng chúng ta lên cao để chạm đến Thiên Chúa, nâng chúng ta lên hàng Con Thiên Chúa, đưa chúng ta vào thẳng trái tim, cung lòng Thiên Chúa, cho chúng ta sống chính sự sống của Thiên Chúa, như thánh Phaolô đã khẳng định: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
“Có Đức Giêsu, mang Đức Giêsu” là căn tính, người Kitô hữu không “có Đức Giêsu, mang Đức Giêsu, sống Đức Giêsu” như mang một lớp áo, một khăn quàng, hay có một phù hiệu, một bảng tên ở ngoài con người, ở ngoài đời sống, ở ngoài thao thức, ước mơ, nhưng là tất cả con người, trọn vẹn cuộc sống thuộc về Đức Giêsu, dành cho Đức Giêsu thể hiện qua một tình yêu “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” (Mt 22,37).
Một khi đã xác định “Đức Giêsu Kitô” là căn tính của Kitô hữu, chúng ta sẽ không như người mù đi trên đường, nhưng dưới ánh sáng của Tin Mừng được Giáo Hội hướng dẫn, giải thích, chúng ta không sống đời Kitô hữu một cách “khơi khơi, tà tà” để đủ điểm vào Thiên Đàng, không thụ động, bàng quan như khách trong nhà Giáo Hội, không “xỏ tay túi quần” nghênh ngang, lạnh lùng nhìn đồng đạo trong xứ sinh hoạt tông đồ, không mê tín xem việc đi đạo như “lá bùa hộ mạng” cất giấu một góc, chờ khi chết sẽ dùng như chiếu khán vào Nước Trời, không giữ đạo kiểu “người sao ta vậy” tính toán công phúc cho vừa đủ để khỏi mang tiếng với thiên hạ là người vô đạo, càng không “lơ mơ, phất phơ, dật dờ” sống đời có đạo mà không có Chúa, Kitô hữu mà không có Đức Kitô.
Ước gì trong tháng hoa của Đức Mẹ năm nay, tôi được cùng các bạn chiêm ngắm Mẹ và học với Mẹ từng ngày đời sống của người Kitô hữu đích thực, để Thiên Chúa được vinh danh, và chúng ta cũng như mọi người được hạnh phúc trong Bình An của Đức Giêsu, căn tính của người Kitô hữu.
Jorathe Nắng Tím     

CHÚA VỀ TRỜI


Suy niệm Tin Mừng Lễ Chúa Thăng Thiên
Núi trong Kinh Thánh là nơi Thiên Chúa tỏ mình, như hôm nào Đức Giêsu đã  “đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17,1-2).
Khung cảnh “núi cao” trở lại trong Tin Mừng Matthêu, khi “Mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến” (Mt 28,16), nhưng lần này, Ngài sai các ông “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Thầy” và hứa ở cùng các ông “mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20). 
Nhiều nhà chú giải đồng ý: đây chính là bối cảnh ở đó Đức Giêsu từ giã các môn đệ về trời, sau khi sai các ông đi loan báo Tin Mừng với năng quyền được chính Ngài trao ban.
Riêng thánh sử Luca thì một mình ngài lại có đến hai khung cảnh lên trời khác nhau: trong Tin Mừng của ngài thì Đức Giêsu dẫn các môn đệ “tới gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời.” (Lc 24,50-51); còn Công Vụ các Tông Đồ thì Luca đặt biến cố lên trời của Đức Giêsu vào khung cảnh của bữa ăn (Cv 1,4), và khi Đức Giêsu lên trời  thì có “hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh” (Cv 1,10), như cố ý làm nổi bật biến cố phục sinh, ở đó cũng “có hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Đức Giêsu” (Ga 20,12), và đề cao “bữa tiệc bẻ bánh” ở đó cộng đoàn Kitô hữu quy tụ cầu nguyện, làm chứng, và chờ ngày Đức Giêsu trở lại.
Dù được kể lại trong khung cảnh nào đi nữa, biến cố Đức Giêsu về trời đã mở sang một trang mới, với sự có mặt và dấn thân loan báo Đức Giêsu đã chết và đã sống lại của Giáo Hội. Nói cách khác, đây mới chính là khởi đầu của Giáo Hội, một Giáo Hội được sai đi, một Giáo Hội lên đường, một Giáo Hội luôn trên hành trình dong duổi với mọi người để làm chứng Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.
Chúng ta có thể ghi nhận ba điểm quan trọng ở thời điểm Đức Giêsu về trời, cũng là khởi điểm hành trình loan báo, làm chứng Đức Giêsu của Giáo Hội:
1.   Giáo Hội lên đường truyền giáo không biên giới với sức mạnh của Chúa Thánh Thần:
Sách Công Vụ các Tông Đồ ghi lại một cách chân thực, và dễ thương câu hỏi của các môn đệ với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, có phải là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ítraen không?” (Cv 1,6).
Các môn đệ hỏi như thế, vì các ông thấy Thầy đã thực sự sống lại, nên các ông tin rằng việc giải phóng Ítraen khỏi tay người Rôma không còn là chuyện khó với Thầy mình, và ước mơ thầm kín mang tính chính trị lại một lần nữa trở về với các ông, cho đến khi Đức Giêsu khẳng định minh bạch chương trình của Ngài: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,7-8).
Như thế, sứ mạng của các môn đệ bây giờ là lên đường truyền giáo, con đường  không biên giới trên đó Tin Mừng “Đức Giêsu chịu đóng đinh, đã chết và đã sống lại” được loan báo cho mọi người, mọi nơi, mọi thời, nhưng các ông không lên đường một mình, không tự mình truyền giáo, nhưng chỉ có thể lên đường truyền giáo với ơn của Chúa Thánh Thần, chỉ có thể rao giảng Đức Giêsu với sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Vì thế, Đức Giêsu đã minh bạch với các ông khi căn dặn: “Không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần” (Cv 1,4-5). 
2.   Giáo Hội là sự viên mãn của Đức Giêsu:
Trước khi về trời, Đức Giêsu đã chuẩn bị tất cả cho Giáo Hội. Ngài đã xin Chúa Cha ban cho Giáo Hội Chúa Thánh Thần; Ngài củng cố niềm tin của Giáo Hội qua lời hứa “ở lại với Giáo Hội mọi ngày cho đến tận thế” (x.Mt 28,19) để Giáo Hội tiếp tục thực hiện công trình cứu thế của Ngài, bởi “Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1, 23). Nói cách khác, Giáo Hội được Đức Giêsu tuyển chọn làm thân thể của Ngài, và Ngài là Đầu của thân thể đó, để Giáo Hội hoàn thành công trình cứu nhân loại đến mức viên mãn, là thánh ý của Chúa Cha, bằng loan báo cho mọi người Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ, để tất cả được đón nhận ơn Cứu Độ của Ngài hầu được hạnh phúc viên mãn trong Ngài.
3.   Đức Giêsu hoàn toàn tin tưởng Giáo Hội của Ngài:
Chúng ta có thể nói: lễ Thăng Thiên là lễ của Thiên Chúa đặt vào đôi tay con  người trọn vẹn trách nhiệm để tiếp tục thực hiện công trình của Ngài trên trần gian. Từ nay, mọi việc được trao cho con người, mọi việc đều được Thiên Chúa ký thác cho con người, vì Ngài tin tưởng con người và muốn con người cùng Ngài  thực hiện công trình cứu độ anh em mình. Một cách cụ thể, Ngài trao cho Giáo Hội, là tập thể những người đi theo Ngài sứ mạng này, và ở với họ, cùng với Thần Khí Tình Yêu, Sự Thật và Sức Mạnh của Ngài.
Vâng, đây chính là lúc bắt đầu thực hiện lời cầu nguyện của Đức Giêsu buổi tối thứ năm tuần thánh: “Tất cả những gì con có đều là của Cha, tất cả những gì Cha có đều là của con; và con được tôn vinh nơi họ. Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế gian; phần con, con đến cùng Cha. Lậy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con…” (Ga 17,10-11).
Cùng toàn thể Giáo Hội mừng lễ Chúa lên trời, chúng ta xin Chúa ban cho chúng ta, những người con của Giáo Hội niềm vui biết mình được Đức Giêsu yêu thương, tin tưởng, khi trao phó sứ mạng loan báo Tin Mừng cho anh em ở khắp mọi nơi, mọi thời, và hạnh phúc được cùng Chúa Thánh Thần lên đường làm chứng Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, Đấng Cứu Độ, Gia Nghiệp và Phần Thưởng đời đời cho những ai đi theo Ngài.
Jorathe Nắng Tím