KINH THÁNH
Kinh
Thánh còn được gọi là Lời Thiên Chúa, Lời cho ánh sáng, Lời ban sự sống, Lời đổi
mới tâm hồn, Lời mang đến hy vọng và ơn Cứu Độ đời đời.
Nhưng
Lời Chúa trong lịch sử nhân loại đã không luôn được mọi người đón nhận như
nhau, mà trở thành cớ của rất nhiều đối kháng, chia rẽ, ly khai. Và ngay hôm nay, trên đất nước này, hiện tượng nhiều “giáo
phái kinh thánh” có khi chỉ quy tụ được trên dưới vài chục người đã tự do giải
thích Kinh Thánh cách rất kỳ lạ, phiếm diện, đầy thiếu sót và khéo léo áp đặt “người
nghe” một giáo thuyết mới lệch lạc, khập khiễng, mâu thuẫn, phi lý tận gốc rễ.
Vì
thế, người trẻ cần có một kiến thức về Kinh Thánh, là nguồn mặc khải của Kitô
giáo, nguồn mặc khải mà bất cứ tín hữu nào cũng phải tìm về để gặp gỡ Đức Giêsu,
Con Người Thiên Chúa cách mật thiết, sống động.
Kinh
nghiệm bước vào kho tàng Kinh Thánh cho thấy: có thể Bạn sẽ “sốc” nặng khi gặp ở
đó đủ chuyện trên đời, dưới đất: văn chương thì đủ thể loại, nội dung cũng muôn
mầu muôn sắc, từ những đọan văn mang tính “huyền thoại”, nếu nhìn dưới lăng
kính khoa học thời đại, như câu chuyện tạo dựng, vườn địa đàng và trình thuật “trái
cấm” ở phần đầu sách Sáng Thế đến những áng thơ trữ tình, lãng mạn, rồi lịch sử,
tuyên sấm của các tiên tri, thư từ, ký sự truyền giáo của các tông đồ, cả những
“thị kiến” khó hiểu của vị tông đồ trẻ tuổi nhất trong Nhóm Mười Hai; Bạn cũng
có thể bị “sốc khủng”, khi khám phá bên cạnh những giá trị cao siêu, những giáo
huấn đạo đức, những lề luật luân lý chuẩn mực, những lời khuyên cần thiết để sống
đạo hạnh là những chuyện khó nghe, khó chấp nhận trong Cựu Ước, như anh trai cưỡng
hiếp em gái ngủ với mình (x. 2 S,13,1-14), con gái chuốc rượu cha, rồi làm tình với cha để
bảo tồn nòi giống (x. St 19,30-38), vua
cướp vợ của thuộc hạ (x. 2S 11,2-26) hoặc những ganh ghét, tị hiềm, đấu đá, phản
bội tàn nhẫn, trả thù dã man, tiêu diệt đẫm máu, chưa kể những mưu mô, thủ đọan
không thua kém phường bá đạo, lưu manh.
Vì
thế chúng ta cần người hướng dẫn có khả năng để giúp chúng ta bước vào đường
tìm hiểu Kinh Thánh, hầu tránh những cú sốc có thể gây xáo trộn tâm lý, kiểu “tẩu
hoả nhập ma” ngay từ phút đầu.
Thực
vậy, nếu đọc Kinh Thánh như đọc một tác phẩm bình thường, chắc chắn Bạn sẽ thất
vọng, vì tự bản chất: Kinh Thánh là Mặc Khải từ Thiên Chúa được con người viết
ra. Do đó, Kinh Thánh không thể đọc như đọc một tác phẩm thuần túy của con người, nhưng là “kiệt tác của
Thiên Chúa” được viết bởi những con người
được Thiên Chúa linh ứng để viết điều Ngài muốn, viết sứ điệp Ngài gửi, vì Kinh
Thánh là Mặc Khải từ Thiên Chúa, của Thiên Chúa cho con người.
Có những chià khóa quan trọng Bạn cần nắm trong tay
khi bước vào kho tàng mặc khải Kinh Thánh:
a.
Thiên Chúa luôn cần sự
hợp tác của con người:
Thiên Chúa không thực hiện bất cứ một công trình “cứu chuộc con người” nào của Ngài mà không có sự hợp tác của con
người. Ngài cần đến sự hợp tác ấy, vì Ngài tôn
trọng tự do của con người, tôn trọng quyền chọn lựa của con người, bởi Ngài là
Tình Yêu, mà tình yêu luôn đòi tự do: tự do yêu và tự do đón nhận “được yêu”:
Thiên Chúa yêu con người nên tôn trọng tự do “được Thiên Chúa yêu” và tự do “đáp
lại tình yêu của Thiên Chúa” nơi con người, mà tuyệt đối không o ép, cưỡng bức,
bó buộc người nào, nên ngay cả khi mặc khải chính mình cho con người, Thiên
Chúa cũng không tự mình làm hết tất cả, kiểu cô giáo đọc chính tả, đánh vần
từng chữ cho học sinh tiểu học, nhưng
điều Ngài muốn là cùng con người “làm việc”, khi linh ứng cho những người
Ngài tuyển chọn để họ viết ra Lời Ngài bằng chính ngôn ngữ, với trình độ văn
hoá, văn phong, lối diễn tả, cách trình bầy, và cử toạ của cá nhân người viết.
Vì thế, yếu tố con người được nổi bật ngay trong Lời Thiên Chúa, nhờ vinh dự được
cộng tác, đóng góp tích cực vào công trình mặc khải của Thiên Chúa.
Cũng
như các phép lạ trong Tin Mừng, Đức Giêsu luôn đòi sự cộng tác của con người,
như khi hoá nước thành rượu ở tiệc cưới Cana, Ngài cần sự hợp tác của Đức Mẹ và
các gia nhân (x. Ga 2,1-10); phép lạ chữa người bại liệt (x. Lc 5,17-20), hay
những người phong hủi (x. Lc 17,11-19), Ngài luôn “thu xếp” để có phần đóng góp
của con người khi nhận phép lạ hoặc được chữa lành, như bảo gia nhân ở Cana đổ
nước đầy các chum, bảo những người phong hủi đi trình diện các tư tế, hoặc để người
nhà người bại liệt dỡ ngói trên mái nhà,
thòng giây thả giường bệnh nhân xuống trước mặt Ngài, bởi Thiên Chúa muốn hoạt
động với con người, muốn con người cộng
tác với Ngài, cụ thể với lòng tin, để thực hiện công trình cứu chuộc con người
của Ngài, vì con người không là những vật thể vô tri, thụ động, nhưng là con
cái tự do của Thiên Chúa.
b. Kinh
Thánh phải được đọc trong ý hướng nhận ra sứ điệp hơn là xét nét từng chữ, đào
bới từng câu riêng lẻ, đơn độc, ngoài ngữ
cảnh:
Thí
dụ, khi đọc trình thuật ông bà nguyên tổ Ađam, Evà ăn “trái cấm trong vườn địa
đàng” (x. St 3), chúng ta không cố tìm cho kỳ được “trái cấm” là trái nào: táo
hay ổi, cam hay quít, mang cụt hay sầu riêng, chuối hay xoài, chôm chôm hay mận,
cũng không chia nhau đi tìm xem vườn địa đàng ở đâu, nhưng chỉ chú trọng đến sứ
điệp Thiên Chúa muốn nói với chúng ta, đó là sự bất tuân phục của con người trước
lệnh truyền của Thiên Chúa, vì con người đã nghe theo Rắn độc ma qủy khi nó nói:
ông bà sẽ cao cả bằng Thiên Chúa, thông biết mọi sự như Thiên Chúa.
Trình
thuật tạo dựng, cũng như vườn địa đàng và sa ngã mà chúng ta đọc trong sách
Sáng Thế chỉ là “dụ ngôn”, nghiã là hình ảnh được người viết hư cấu thành một
câu chuyện để chuyển tải sứ điệp của Thiên Chúa. Sứ điệp Thiên Chúa là “Đấng dựng
nên trời đất muôn vật hữu hình và vô hình” mới là chính yếu, trọng tâm.
c.
Đức Giêsu, Thiên Chúa
làm người là trung tâm điểm của Kinh Thánh:
Nếu
đọc Kinh Thánh như đọc một pho sách với nhiều quyển rời rạc, mà không quy hướng
về một tâm điểm là Đức Giêsu của Tân Ước, thì chúng ta không hiểu gì vì mất hướng,
lạc đường, bởi tất những gì được ghi chép trong Kinh Thánh Cựu ước cũng như Tân
Ước đều quy chiếu về một mình Đức Giêsu. Điều đó có nghiã thời đại của Đức
Giêsu mới là thời kỳ viên mãn, thời kỳ hoàn thành trọn vẹn công trình cứu độ
loài người của Thiên Chúa, thời của Nước Thiên Chúa.
Vì
thế không có sự đối kháng, tách biệt, xa lạ giữa Cựu Ước và Tân Ước, bởi vai
trò của Cựu Ước cũng như của Israel, dân riêng Thiên Chúa là chuẩn bị cho Đức
Giêsu đến trong Tân Ước.
Đó
là lý do toàn bộ Cựu Ước với nhiều trước tác, nhất là sách các ngôn sứ Ước đều
quy chiếu, báo trước về Đức Giêsu và tiệm tiến chuẩn bị cho Ngài suốt ba ngàn
năm trước, cho đến khi Gioan Tẩy Giả xuất hiện như gạch nối giữa Cựu Ước và Tân
Ước, để loan báo “Nước Trời đã đến gần” (Mt 3,2), và trân trọng giới thiệu Đức
Giêsu với các môn đệ của ông và đám đông đến xin ông làm phép rửa bên sông
Giođan: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống
cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người,
Người làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1,7-8).
Vì
thế, Thiên Chúa của Cựu Ước và Tân Ước là một, mặc dù có sự khác biệt về cách
yêu thương của Ngài, như Thiên Chúa được mặc khải trong Cựu Ước có cung cách của
một Thiên Chúa nghiêm khắc, trừng phạt, nhưng trung tín khi không ngừng làm mới
lại giao ước liên tục bị Israel vi phạm, xé bỏ vì bất trung, trong khi Thiên
Chúa được chính Đức Giêsu mặc khải trong Tân Ước là một người Cha nhân hậu gần
gũi con cái (x. Lc 15,11-30), một Mục Tử nhân lành “sẵn sàng hiến mạng sống vì
đoàn chiên”, chấp nhận hy sinh cho “đoàn chiên được sống và sống dồi dào” (Ga
10,10), và là Đấng Cứu Độ bao dung, giầu lòng xót thương người có tội.
Về
điểm này, chúng ta có thể mường tượng Thiên Chúa như người Cha trong gia đình:
khi con cái còn nhỏ cần vào nề nếp thì người cha tỏ ra nghiêm khắc, nhưng khi
con đã lớn khôn, trưởng thành thì thái độ của cha gần gũi, thông cảm, mềm mỏng
hơn, mặc dù tình cha vẫn là một, tình yêu dành cho con không đổi thay, phôi
pha, vơi cạn.
Tóm
lại, chúng ta đọc Cựu Ước với tâm hồn hướng về Đức Giêsu như các ngôn sứ của Cựu
Ước đã tuyên sấm về Đức Giêsu và thời đại Cứu Thế của Ngài, cũng như toàn bộ lịch
sử dân riêng là bước chuẩn bị cần thiết cho mầu nhiệm Nhập thế, Nhập Thể của
Ngôi Lời Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô.
d. Kinh
Thánh không là “chiếc hộp thần kỳ” đựng những đáp số có sẵn:
Có
người coi Kinh Thánh là một “máy đáp số” tự động cho mọi vấn đề, chỉ cần bấm
vào hỏi là có ngay đáp số đúng, mà không cần phải làm gì.
Không,
Kinh Thánh không cho chúng ta những đáp số kiểu tự động, tự nhiên như thế, vì
Kinh Thánh là Lời Thiên Chúa, ở đó Thiên Chúa nói với chúng ta và chúng ta có
quyền đáp lời Ngài hay khước từ Ngài, có tự do lắng nghe và đem ra thực hành Lời
Ngài, hay bỏ qua, không quan tâm đón nhận. Vì thế, Kinh Thánh có thánh ý Chúa để
con người tùy ý vâng nghe hoặc không nghe, nên khi đọc Kinh Thánh, chúng ta đi
tìm thánh ý Thiên Chúa và đợi chờ ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần. Ơn này được
ban tùy theo thiện chí của mỗi người, tùy theo mức độ vâng phục và đón nhận của
từng người, tùy theo lòng quảng đại trước thánh ý của mỗi cá nhân.
Như
thế, Kinh Thánh là Lời Thiên Chúa nói với
những ai tìm đến và muốn lắng nghe Lời Ngài, và chính Thiên Chúa qua Lời hằng sống
sẽ soi sáng, hướng dẫn họ con đường phải đi, việc phải làm.
e. Giáo
Hội có nhiệm vụ gìn giữ và giải thích Kinh Thánh:
Đây
là điểm quan trọng đối với người tín hữu, mà vô tình nhiều người đã không quan
tâm, lưu ý, khi tự mình hoặc dễ dàng để mình bị lôi cuốn vào những lối giải
thích của những “nhóm chú giải” ở ngoài Giáo Hội, khi Kinh Thánh không được giải
thích phù hợp với nội dung chân lý đích thực. Chúng ta đừng quên một trong nhiệm
vụ chính yếu của Giáo Hội được Đức Giêsu trao phó chính là gìn giữ kho tàng mặc
khải đức tin, nên việc giải thích Kinh Thánh đúng theo ý Chúa thuộc quyền của Giáo
Hội, mà tất cả chúng ta phải nghe theo.
Hiện
nay, có rất nhiều giáo phái thiên về kinh thánh với những “chú giải” kỳ lạ vừa
không chính xác vừa không hợp lý đang làm thành hiện tượng nổi cộm ở nhiều quốc
gia, trong đó Việt Nam được coi là miền đất “trù phú, phì nhiêu” cho các loại
hình giáo phái này.
Khi đã nắm chắc những chià khóa trên, chúng ta sẽ được
Thiên Chúa mở lòng để đón nhận từ Kinh Thánh những chân lý đức tin thánh thiện:
1. Lịch
Sử Cứu Độ loài người của Thiên Chúa:
Đó
là dòng lịch sử cứu độ của Thiên Chúa khởi đi từ sau biến cố sa ngã của ông bà
nguyên tổ. Lịch sử ấy là lịch sử của con người được Thiên Chúa thương xót đồng
hành và cứu độ.
Thiên
Chúa đi với con người trên từng bước thăng trầm của con người, những bước thăng
trầm của trung tín, phản bội, của sốt sắng, năng nổ và ươn lười, biếng nhác, của
khiêm tốn ăn năn và kiêu căng, ngạo mạn, của phung phá bỏ đi và thống hối trở về.
Lịch sử ấy là lịch sử Thiên Chúa yêu thương và quyết tâm cứu chuộc con người, để
con người lập lại vị thế con cái Thiên Chúa mà tội lỗi đã làm mất; lịch sử của
tình yêu vô cùng và đến cùng của Thiên Chúa trải dài theo lịch sử “dật dờ, bấp
bênh, lên xuống” vì yếu đuối của con người; là lịch sử của Giao Ước “Ta là
Thiên Chúa của các ngươi, và các ngươi là dân Ta” đã được làm đi làm lại nhiều
lần, vì con người không trung tín giữ lời thề; là lịch sử con người được cứu rỗi
nhờ máu của Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời của Thiên Chúa.
Chính
vì thế, những yếu đuối, sa ngã, đốn hèn, bất xứng của con người gặp được trong
Kinh Thánh trở nên dễ hiểu, vì đó là lịch sử cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện
giữa con người, với con người và cho con người đày khiếm khuyết, tội lụy.
2.
Dung mạo đích thực và ý
muốn của Thiên Chúa:
Kinh
Thánh cho chúng ta nhận biết Thiên Chúa là ai, Ngài yêu con người đến mức nào,
và đâu là ý muốn của Ngài.
Khi
xuống thế làm người, Ngôi Lời của Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô đã ở giữa con
người, sống như con người, mang lấy trọn vẹn thân phận làm người phàm như mọi người, trừ tội lỗi (x. Pl 2,6-8) để
con người được nhìn thấy Thiên Chúa trong Đức Giêsu, được chạm vào Thiên Chúa
qua Đức Giêsu, được trò chuyện, tâm sự với Thiên Chúa nơi con người Đức Giêsu,
được đến với Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu. Và chúng ta được biết Thiên Chúa là Tình
yêu, là Cha nhân hậu, là Mục Tử nhân lành, Đấng Cứu Độ đã tự nguyện chết cho muôn
người được sống.
Trong
Đức Giêsu, chúng ta còn được biết Thiên Chúa muốn gì nơi mỗi người, đợi chờ gì ở
cộng đoàn, mong ước gì ở toàn thể nhân loại. Và vì là Tình Yêu, Thiên Chúa cũng
chỉ muốn chúng ta yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương chúng ta (x. Ga 13,34).
3. Lý
do, ý nghiã và giá trị của con người trước Thiên Chúa:
Kinh
Thánh không chỉ mặc khải cho chúng ta Thiên Chúa và ý muốn của Ngài, mà còn mặc
khải chính chúng ta cho chúng ta, bởi không có mặc khải của Đức Giêsu,
chúng ta không biết sự sống của mình quan trọng như thế nào dưới mắt Thiên
Chúa, không biết địa vị và vinh dự của mình cao đẹp đến đâu trong trái tim
Thiên Chúa, không biết hạnh phúc của mình lớn lao cỡ nào trong nhà Thiên Chúa,
không biết phần thưởng tương lai hằng phúc của mình qúy giá đến đâu trong vương
quốc Thiên Chúa.
Không
có mặc khải của Thiên Chúa trong Kinh Thánh, chúng ta cũng không biết ý nghiã và giá trị của cuộc đời trần thế chóng
qua, tạm bợ với “ba chìm, bẩy nổi, chín long đong” của chúng ta trên hành trình
đi tìm hạnh phúc đích thực, và không có Đức Giêsu mặc khải, chúng ta hoàn toàn
mù mờ về sự chết, phán xét, thiên đàng hoả ngục.
Còn
một mặc khải khác cũng không kém quan trọng, đó là chúng ta được biết chúng ta
là ai với người khác, tức tương quan giữa con người với con người, bởi không có
Thiên Chúa mặc khải Ngài là Cha trên trời, chúng ta không thể nhận mình là anh
em của nhau, cùng là con của một Cha trên trời. Và vì là anh em, chúng ta được mời
gọi đi vào tình yêu của Thiên Chúa là Cha, để yêu thương nhau như tình Cha đã
yêu thương.
Vâng,
người trẻ chúng ta cần được Giáo Hội hướng dẫn để kín múc ở Lời Chúa tình yêu Đức
Giêsu, và ơn cứu độ của Ngài, và để đạt mục đích “biết lắng nghe và sống Lời Chúa”,
không gì cần thiết và tốt hơn là khiêm tốn mở lòng cho Chúa Thánh Thần ngự đến
và ở lại, vì Ngài là Thánh Thần Chân Lý, như chính Đức Giêsu đã qủa quyết với
các tông đồ: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng
đó sẽ dậy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với
anh em” (Ga 14,26).
Jorathe
Nắng Tím