Thiên
Chúa ban cho con người chan chứa hồng ân, và một trong những hồng ân lớn chính
là con người được quyền đi thẳng vào trái tim Thiên Chúa khi tỏ tình, tâm sự,
giao lưu, chia sẻ với Ngài bằng nâng tâm hồn lên tới Ngài, hướng lòng trí về
Ngài và hiệp thông, hiệp nhất trong Ngài khi cầu nguyện.
Như
thế, cầu nguyện là liên lạc trực tiếp với Thiên Chúa ; là đi vào tương
quan mật thiết, ân tình với Thiên Chúa ; là nói Chúa nghe và nghe Chúa nói
như hai người yêu nhau ngày đêm trao đổi,
gặp gỡ, chia sẻ tâm sự buồn vui và mọi biến cố, sự kiện to nhỏ xẩy ra từng giờ, từng ngày trong suốt cuộc sống.
Trong Tin Mừng, qua lời giảng dậy và hành động, Đức
Giêsu cho chúng ta biết :
1. Cầu
nguyện là hồng ân Thiên Chúa ban cho hết mọi người, không trừ ai :
Nhiều
người lầm tưởng : chỉ người đi đạo mới có quyền cầu nguyện, chỉ người có đạo
cầu nguyện mới được Chúa nhận lời, chỉ người có đạo mới biết cầu nguyện và cầu
nguyện cách xứng hợp, xứng đáng.
Tin
Mừng chứng minh ngược lại : bất cứ ai thuộc bất cứ phe phái, tôn giáo,
chính kiến nào cũng có quyền cầu nguyện, vì quyền cầu nguyện là hồng ân nhưng
không Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người, nên có môn đệ là con cái trong nhà
xin Đức Giêsu dậy cầu nguyện (x. Lc 11,2-4) ; có những người phong cùi
trong đạo Do Thái cầu nguyện với Đức Giêsu xin Ngài chữa lành và Ngài đã cho họ
được toại nguyện, đồng thời căn dặn họ “hãy đi trình diện tư tế và dâng của lễ như ông Môsê đã truyền” (Mt 8,4), để làm chứng cho
người ta biết họ đã được sạch ; có viên sĩ quan ngoại đạo cầu nguyện xin
Chúa chữa người đầy tớ của mình “bị
tê bại nằm liệt ở nhà, đau đớn lắm”
(Mt 8,6), và Ngài đã chữa, đồng thời ca tụng đức tin của ông : “Tôi không thấy một người
Ítraen nào có lòng tin như thế”
(Mt 8,10) ; có người đàn bà ngoại giáo miền Canaan cầu xin Chúa “chữa con gái bà bị qủy ám khổ
sở lắm” (Mt 15,22), và
Ngài chữa con bà, sau khi thử thách đức tin của bà, và
khen ngợi : “Này bà,
lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy” (Mt 15,28).
Quyền
cầu nguyện cũng là hồng ân Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người ở bất cứ tình trạng
thiêng liêng nào : có những tông đồ thánh thiện cùng đi cầu nguyện với Đức
Giêsu (x. Mt 26,36-37) ; có người phụ nữ bị bắt qủa tang đang ngoại tình
cúi mặt lặng thinh nhưng biểu hiện tình yêu thống thiết xin Ngài cứu giúp (x. Ga 8,1-11), và Ngài đã cứu chị ta khỏi bị
ném đá đến chết theo luật Môsê ; ấn tượng hơn cả là lời cầu nguyện của người
gian phi cùng bị đóng đinh với Đức Giêsu, và Ngài đã hứa với anh : “Ngay hôm nay, anh sẽ được ở với
tôi trên thiên đàng” (Lc
23,43).
Như
thế, cầu nguyện với Thiên Chúa của Đức Giêsu là quyền của mọi người, bất luận họ
là ai, thuộc giai cấp, trình độ, quan điểm chính trị, tín ngưỡng tôn giáo, tình
trạng luân lý, đạo đức nào, bởi quyền này là Hồng Ân nhưng không của Thiên Chúa
ban cho toàn thể loài người là con cái từ tình yêu Ngài sinh ra, một quyền phổ
quát như Đức Giêsu đã qủa quyết sau khi làm phép lạ cho người đầy tớ của viên
sĩ quan ngoại đạo khỏi bệnh : “Tôi nói cho các ông hay : Từ phương đông phương tây, nhiều
người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Ápraham, Ixaác và Giacóp trong Nước Trời” (Mt 8,11). Do đó, bất cứ chủ
trương triệt tiêu, ngăn cản, hạn chế, cấm vận quyền cầu nguyện của người khác,
dù họ là ai đều đi ngược thánh ý Thiên Chúa, và vi phạm quyền thiêng liêng của
con người. Đây cũng là điều chúng ta ít quan tâm, nên đôi khi vấp phải một số
thiếu sót trên đường truyền giáo, khi vô ý phân biệt một cách thiếu tế nhị giữa
người có đạo và chưa có đạo trong những buổi cầu nguyện chung.
2.
Quyền cầu nguyện mọi nơi :
Cầu
nguyện nâng bổng, cất cao con người lên tới Thiên Chúa, và cho con người đi vào
sự sống của Thiên Chúa, do con người được sinh ra từ Thiên Chúa và sẽ trở về với
Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa ban sự sống, đời sống cho con người, nên gắn bó với
nguồn sống, con người sẽ không bao giờ khô héo, cằn cỗi, mà cầu nguyện là máng
chuyển sự sống, là phương tiện Thiên Chúa ban cho con người để con người kín
múc sự sống từ Thiên Chúa là nguồn sống
phong phú đời đời. Vì thế, cầu nguyện là nhu cầu thiết yếu để con người được sống
hạnh phúc trong chính hạnh phúc của Đấng tạo dựng nên mình
Đó
là lý do cầu nguyện gắn chặt với đời sống, đan
quyện trong từng sinh hoạt đời sống để ở đâu, lúc nào, trong bất cứ tình huống,
hoàn cảnh, tâm trạng nào, con người cũng có thể cầu nguyện, có quyền cầu nguyện
và cần cầu nguyện.
Với
quyền cầu nguyện là hồng ân Thiên Chúa ban, con người có thể cầu nguyện ở mọi
nơi : trong đền thờ, trước công chúng, giữa phố chợ, với nhiều người hay một
mình, đóng cửa lại và cầu nguyện cùng Cha, “Đấng thấu suốt những gì kín đáo” (Mt 6,6).
3. Quyền
cầu nguyện với Thiên Chúa về mọi vấn đề, mọi sự, mọi biến cố, mọi tâm tư, mọi ước nguyện :
Thấy
Đức Giêsu, Thầy mình thường xuyên cầu nguyện, một người trong nhóm môn đệ nói với
Người : “Thưa Thầy,
xin dậy chúng con cầu nguyện.”
(Lc 11,1), và Đức Giêsu đã dậy các ông kinh Lậy Cha : “Lậy Cha, xin làm cho danh
thánh Cha vinh hiển, Triều Đại Cha mau đến, xin Cha cho chúng con ngày nào có
lương thực ngày ấy ; xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng
tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con, và xin đừng để chúng con sa chước cám
dỗ” (Lc 11,2-4).
Đức
Giêsu dậy chúng ta cầu nguyện cho Nước Thiên Chúa sớm hiển trị trong mọi tâm hồn
để Chúa được vinh danh và mọi người được hạnh phúc đời đời ; dậy chúng ta
xin Chúa ban của ăn hằng ngày nuôi thân xác để phụng sự Chúa và phục vụ anh
em ; dậy chúng ta xin Chúa ban một tấm lòng khiêm tốn, thống hối, ăn năn để
được Chúa thương xót thứ tha ; dậy chúng ta cầu xin ơn đổi mới trái tim để
biết thương yêu, bao dung, tha thứ cho mọi người mắc lỗi với mình, và dậy chúng
ta cầu xin ơn phù trợ để không sập bẫy của ma qủy, thế gian hằng cám dỗ chúng
ta kiêu căng chống lại Thiên Chúa, và ganh ghét, đố kỵ, hận thù anh em.
Ngoài
kinh nguyện tuyệt hảo do chính Đức Giêsu dậy trên, chúng ta cũng được Chúa mời
gọi nói với Ngài tất cả những gì chúng ta muốn nói, như đứa con bé bỏng nói với Cha mình, vì không có gì được coi là “cấm kỵ” giữa tâm hồn mỗi người với Thiên Chúa trong khi
cầu nguyện, bởi Thiên Chúa là Cha nhân hậu biết con cái cần gì và là Đấng thấu
suốt mọi sự kín đáo tận đáy lòng mỗi người.
Tin
Mừng làm chứng điều này, khi có “người
đàn bà bị băng huyết đã mười hai năm, bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc
đã nhiều đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là
khác. Đươc nghe đồn về Đức Giêsu, bà lách đám đông, tiến đến phía sau Người, và
sờ vào áo của Người.Vì bà tự nhủ : “Tôi mà sờ được vào áo Người thôi là sẽ được cứu. Tức khắc máu cầm
lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh”. Ngay lúc đó, Đức Giêsu thấy có một năng lực tự
nơi mình phát ra, Người liền quay lại giữa đám ông mà hỏi : “Ai đã sờ vào áo tôi ?”. Các môn đệ thưa : “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy
như thế mà Thầy còn hỏi : Ai đã sờ vào tôi ?” Đức Giêsu ngó quanh để nhìn người phụ nữ đã
làm điều đó. Bà này sợ phát run lên, vì biết cái gì đã xảy ra cho mình. Bà đến
phủ phục trước mặt Người. Người nói với bà ta : “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con
hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh”
(Mc 5,25-34).
Như
thế, cầu nguyện không chỉ bằng lời, mà còn bằng nhiều cách khác nữa, như người
đàn bà bị băng huyết lâu năm đã cầu nguyện với tâm tư, khát vọng thầm kín của
mình bằng tự nhủ : “Tôi
mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu” (Mc 5,28).
4.
Cầu nguyện với ơn Chúa
Thánh Thần và trong Đức Tin :
Chúng
ta “được cầu nguyện và cầu
nguyện được”, vì Đức
Giêsu đã đến “để chúng ta
được nên công chính nhờ đức tin”
(Gl 3,24). Thánh Phaolô đã khẳng định với cộng đoàn Galát : “Nhờ đức tin, tất cả anh em đều
là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Qủa thế, bất cứ ai trong anh em được
thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô. Không còn chuyện phân biệt
Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà ; nhưng tất cả anh
em chỉ là một trong Đức Kitô”
(Gl 3,26-28).
Như
thế, không phải tự chúng ta có thể đi vào tình nghiã với Thiên Chúa, đi vào tận
trái tim Thiên Chúa khi cầu nguyện, mà là Đức Giêsu đã cứu chuộc chúng ta, “hầu chúng ta nhận được ơn làm
nghiã tử” (Gl 4,5). Thánh
Phaolô quảng diễn chân lý này như sau : “Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã
sai Thần Khí của Con mình đến ngư trong lòng anh em mà kêu lên : Ápba, Cha
ơi! Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng
là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa”
(Gl 4,6-7).
Đây
chính là cốt lõi của cầu nguyện, nền tảng xây dựng việc cầu nguyện, lý do chúng
ta phải cầu nguyện, bởi cầu nguyện không
còn là tương quan giữa ông chủ và tôi tớ, giữa cấp trên và cấp dưới, hay tương
quan giữa hai người xa lạ, nhưng là tương quan yêu thương giữa cha và con,
tương quan huyết thống giữa con và cha, tương quan miêu duệ giữa cha con và
dòng dõi mãi đến muôn đời.
Chính
trên nền tảng tương quan Cha con, chúng ta được hạnh phúc gọi tên Thiên Chúa :
“Ápba, Cha ơi!” khi cầu nguyện, vì Thần Khí của
Đức Giêsu đã mở lòng chúng ta, tuôn đổ hồng ân đức tin trên chúng ta, để chúng
ta cầu nguyện như con với Cha, và như lòng Chúa mong ước.
Ước
gì cầu nguyện trở thành lẽ sống của đời mỗi người Kitô hữu, và là món qùa qúy
giá của Thiên Chúa phải được chúng ta chuyển giao với ưu tiên hàng đầu cho những người anh em đang trên đường đi tìm
Thiên Chúa.
Jorathe
Nắng Tím