Tìm kiếm Blog này

Thứ Ba, 5 tháng 5, 2020

Chương 2 Ly Dị = Chia, Sẻ, Xa

Chỉ hai chữ Ly Hôn  thôi đã đủ nói lên hôn nhân từ nay là hôn nhân chia lià, hôn nhân sẻ đôi, hôn nhân xa cách. Hai người sẽ phải chia, phải sẻ, phải xa và họ sẽ rơi vào một hoàn cảnh mới, ở đó vật chất phải chia, người phải xa, tinh thần phải sẻ.
1.Vật chất phải chia  
 Khi lấy nhau, hai người muốn nên một, vì thế, của cải, vật chất được cộng chung, và không ai quan tâm hay đúng hơn không ai dám nói đến chuyện “của ai nấy giữ, tiền ai nấy xài”. Lý tưởng đời sống chung thật đẹp và quyến rũ hai người muốn nên một trong tất cả, từ tinh thần, thể xác đến của cải vật chất, nên cái gì của anh là của em, sự gì em có là  anh có, và chúng mình  đồng lao đồng hưởng, không so đo, tính toán, ki bo, cất giấu riêng cho mình.
Rồi một ngày, chuyện không mong nhưng đến khi hai người ly dị, và của cải vật chất phải phân chia. Đây là then chốt của hầu hết các nhiêu khê, phức tạp, kể cả tang thương trong  những vụ kiện tụng ly dị có thể kéo dài hằng nhiều năm, tốn kém không biết bao nhiêu tiền bạc, phí phạm nhiều nghị lực, thời giờ, sức khoẻ.
a.   Có những cặp vợ chồng đã rành mạch về của cải riêng ngay trước khi lấy nhau. Tuy nhiên, gia sản chung của hai người trong thời gian sống chung  cũng là vấn đề cần giải quyết sòng phẳng.
b.   Có người chồng, hoặc vợ tự nguyện để lại phần của mình cho con cái và rút ra khỏi mọi tranh chấp vật chất khi ly dị.
c.    Hai người thoả thuận giải quyết tài sản chung.
d.   Phần đông không đi tới thoả thuận, nên phải nhờ Toà Án can thiệp, phân chia.
Phân chia tài sản trong ly dị làm nhức nhối không ít những cặp vợ chồng ly dị. Họ không ngờ trận chiến phân chia tài sản lại ác liệt đến thế. Trận chiến không chỉ có đối thủ là chồng, là vợ, mà còn có mặt của rất nhiều đồng minh khác:  Cha mẹ, anh chị em, chú bác, bạn bè, đặc biệt sự có mặt “nặng ký”có tính quyết định của người chồng, hoặc người vợ sắp cưới của một hoặc của cả hai. Ai cũng có tiếng nói, ai cũng đòi tham dự quyết định, ai cũng dành phần thắng, ai cũng muốn phần lớn hoặc toàn bộ tài sản thuộc về mình.
Đây là lúc vợ chồng cũ “cạn tầu ráo máng” khi thi nhau kể lể tài cán, công lao, vất vả của mình. Chồng thì vỗ ngực là người đã làm nên tất cả, một mình xây dựng sự nghiệp, một tay tạo ra tài sản chung. Ông không ngượng gọi vợ cũ là phường ăn bám, chẳng  biết làm ăn, chưa “đi cầy” một ngày. Ông quên bẵng: không có bà thì ai đã chăm lo con cái, chuẩn bị từng bữa cơm ngon, áo quần  ủi thẳng thốn cho ông đi làm. Ông tự nhận hết tài sản về mình và phủ nhận “của chồng công vợ”. Về phiá vợ cũ, bà cũng có thể giương vây, xù móng, “mồm loa mép dải” kể từng ngày lặn lội gian nan gầy dựng nên cơ đồ và hạ quyết tâm dành hết tài sản về mình. Như ông, bà đã quên công sức của chồng.
Trong cuộc chiến tranh giành tài sản, người ta thường rất kinh dị với đủ độc chiêu để đốn gục, đánh ngã đối thủ. Tài sản trở thành mục tiêu phải đạt, và hai phe lâm chiến tự cho phép mình xử dụng mọi thủ đoạn dù là những thủ đoạn bỉ ổi, thâm độc, bất nhân. Cũng trong cuộc đấu tranh ác liệt này, “đường xưa lối cũ” bị xóa tên và “người xưa, tình  cũ” bị lặng lẽ chôn vùi.   
   2.   Người phải xa:
a. Vợ chồng ly dị phải xa nhau:
Hai người đã yêu, và chung sống với nhau một thời nay phải xa nhau, vì đòi hỏi của ly dị. Chính vì không vượt qua được khác biệt mà nay phải ly biệt; không thuận thảo chung sống, nên phải chia ly. Biệt ly là kết qủa tất nhiên của ly dị, và hai người hoặc  đồng thuận hoặc bất đắc dĩ phải chấp nhận xa nhau, sau khi hôn ước bị xé bỏ.
Người ta không ly dị để ở chung, nhưng vì không thể ở chung nên phải ly dị. Ly dị đánh dấu một xa cách, một chia lià, một mãi mãi biền biệt.
b. Con cái của cha mẹ ly dị phải xa cha hoặc mẹ:
Vì cha mẹ không thể sống chung dưới một mái nhà, không thể sinh hoạt trong cùng tổ ấm mà con cái phải mất một trong hai, hoặc có cha mất mẹ, hoặc có mẹ mất cha. Người lớn không chịu “đội trời chung”, hỏi làm sao con trẻ được xum vầy cùng lúc bên gối cha, trong lòng mẹ?
Người ta chỉ có thể gượng gạo chắp nối, vá víu khoảng trống quá lớn “cha hoặc mẹ” bằng giải pháp thăm con hay ở với con những cuối tuần hoặc kỳ nghỉ. Chẳng hạn, người cha có quyền đón con về chơi một hoặc hai cuối tuần trong một tháng, một vài dịp lễ trong năm, nếu con  ở với mẹ, và ngược lại. Nhưng đó chỉ là giải pháp có tính cách “bù đắp, chạy tội, xoá bỏ mặc cảm” rất tương đối, nhất thời…
c. Vợ chồng cũ xa dần gia đình bên chồng, bên vợ:
Ly dị không chỉ làm vợ chồng  xa nhau, con xa cha hoặc xa mẹ, mà còn làm xa gia đình hai bên trước đó đã thắm thiết nghiã tình. Từ nay, người chồng ly dị sẽ không hứng thú đến thăm cha mẹ, anh chị em, gia đình bên vợ. Người vợ ly dị cũng  mất hết tự tin và niềm vui ghé thăm cha mẹ chồng cũ. Và xa mặt thì cách lòng, cho đến một ngày chẳng ai còn nhận ra ai, vì ai cũng đã trở thành  người xa lạ.
1.   Tinh thần phải sẻ:
Có lẽ tinh thần người ly dị không chỉ bị sẻ đôi mà bị sẻ mười, sẻ một  trăm. Ngày xưa gia đình chỉ một mối, nhưng nay thì nhiều mối: con cái của cuộc hôn nhân đổ vỡ, bên cạnh là con cái của cuộc hôn nhân mới; qúa khứ với kỷ niệm buồn vui, thành công, thất bại cùng ngưởi vợ, chồng đã ly dị, bên cạnh hiện tại với nhiều thách đố với người tình hoặc vợ, chồng mới. Tương quan càng mở rộng, bổn phận càng nhiều, trách nhiệm càng nặng, lo âu càng sâu, tinh thần càng căng thẳng, cấu xé.
Vì tình cảm vẫn còn đó, trách nhiệm vẫn réo gọi, lương tâm không ngừng nhắc nhở, nên tinh thần day dứt khôn nguôi. Không day dứt sao được khi nhớ đám con vắng bóng cha, thiếu tình cha, cần bàn tay cha nâng đỡ ? Không đắng đót sao được khi kỷ niệm  tình cũ vẫn trở về giữa hiện tại tình mới nhiều khó khăn trắc trở ? Và cứ thế, tinh thần vẫn mãi chưa được yên.
Chia, xa, sẻ. Cả ba đều gợi lên giảm thiểu, khấu trừ, thiệt thòi, mất mát. Nó cũng diễn tả khoảng cách không gian, cách trở tinh thần. Và bất cứ sự gì khi phải chia, xa, sẻ đều gắn liền tâm trạng buồn.
Ly dị là câu chuyện không vui, dù ly dị được lý giải, biện minh bởi bất cứ lý do gì; bởi ly dị tự nó là một đứt đọan, gẫy gánh, đổ vỡ,  suy sụp, kết thúc của công trình được thực hiện qua tự do chọn lựa, trên lời hứa và niềm xác tín sẽ cùng nhau đi đến cuối cuộc đời. Ly dị  cắt đứt hành trình của hai người yêu nhau đang cùng sánh bước. Ly dị hủy bỏ dự phóng tương lai của vợ chồng  muốn cùng nhau thực hiện ước mơ “có nhau trọn kiếp”. Ly dị ngăn trở và cấm cản hai người bạn đời chung đường chung lối đi đến đời đời.
Tóm lại, ly dị là chuyện chẳng đặng dừng, vì trước đó, hai người  đã tự nguyện yêu nhau và chọn nhau làm vợ chồng. Những  “chia, xa, sẻ” khi  ly dị chỉ là hậu quả tất yếu của một lần lựa chọn thứ hai trái ngược với lựa chọn lần thứ nhất khi kết hôn. Nếu kết hôn là kết hợp hai người, thì ly hôn là ly tán hai người. Nếu kết hôn là hợp nhất hai người, thì ly hôn là phân rẽ hai người. Nếu kết hôn là khế ước gắn bó hai người nên một, thì ly hôn là tách  hai người rời xa hẳn nhau.
Ly dị là một thực trạng, một thực tế cần được nhìn nhận và can đảm đối diện. Nhìn nhận  ly dị để không đánh giá sai. Can đảm đối diện để có đáp án đúng nhất. Nhờ thế, ly dị không trở thành tai hoạ và hạnh phúc  của cuộc sống hậu ly dị được bảo đảm.


Chương 1: Ly Dị


Mục tiêu của tập chia sẻ là những vấn đề sau ly dị, nhưng không thể nói chuyện sau mà quên chuyện trước. Vì thế, rảo quanh câu chuyện ly dị một chút cũng là điều nên làm, trước khi cùng bạn chạm mặt với thời hậu ly dị nhiêu khê.
1.   Ly dị không còn khó khăn :
a.   Do xã hội cởi mở : 
Có nhiều chuyện người ta muốn làm, nhiều việc người ta muốn thử sức, nhiều món ăn chơi muốn liều lĩnh nếm mùi. Nhưng nếu phải vượt qua nhiều cản trở, nhiều hàng rào ngăn cấm, nhiều con mắt rình rập, nhiều điều kiện khó khăn thì người ta sẽ ngần ngại  hoặc không dám làm, hoặc không đủ điều kiện, phương tiện làm. Chú bé mười hai tuổi  rất muốn hút thuốc để làm người lớn, nhưng không tiệm nào bán thuốc lá cho trẻ vị thành niên, và  con nít  hút thuốc sẽ bị người lớn la rầy, trừng phạt. Nhờ thế mà cậu bé dù muốn làm người lớn sớm cũng may mắn không phải sớm làm người lớn hút sách, sa đoạ.
Ngày nay, ly dị không còn là điều cấm kỵ, khó nói, nhưng xã hội đã giải phóng gia đình, giải phóng lứa đôi, giải phóng luôn kỷ cương, truyền thống, nên ly dị trở thành chuyện nhỏ, riêng tư, không còn là chuyện lớn, gây ảnh hưởng cho đám đông, quần chúng. Vì là chuyện nhỏ, bình thường và riêng tư, người ta dễ dàng « mời » nhau ly dị khi không còn thích ở với nhau, thanh thản ký đơn ly hôn mà không sợ dư luận, vui vẻ tự giới thiệu « còn độc thân, vì mới ly dị » mà không chút ngượng ngùng, chia sẻ những mánh khóe để giựt về mình phần thắng khi Toà án  phân chia tài sản  mà không chút liêm sỉ, e ngại. Xã hội hôm nay không những mở cửa, mở đường mà còn tiếp tay, tiếp sức cho ly dị dưới chiêu bài giải phóng con người, giải phóng nữ giới, giải phóng gia đình…Cơ chế không còn can thiệp theo hướng cố gìn giữ nền tảng gia đình, cố trì kéo quyết định ly hôn với hy vọng đôi bên sẽ đi đến hoà giải , mà hầu như tạo điều kiện thuận lợi cho cách giải quyết nhanh, gọn, nhẹ là ly hôn khi hai người cảm thấy khó có thể tiếp tục đời sống vợ chồng. 
Xã hội cũng không giảm thiểu những quyền lợi của người ly dị ; trái lại, rộng tay trợ cấp cho các bà mẹ độc thân, tức những người đàn bà một mình nuôi con, trong đó phần lớn là những người mẹ đã ly dị  như quy chế hiện nay ở các nước Âu Châu. Vì thế, nhiều cặp vợ chồng đã chọn  ly dị như giải pháp kinh tế khi gia đình rơi vào bế tắc tài chánh.
Xã hội nhắm giải quyết tức thời những vấn đề trước mắt hơn quan tâm đến hậu qủa lâu dài, nên ưu tiên giải quyết ly dị mà không chuẩn bị cho người trong cuộc thế quân bình cần thiết sau ly dị, nhất là các con chung của hai người ly dị.
  một xã hội cực đoan  đề cao tự do cá nhân, cực đoan « lăng xê » quyền phụ nữ, cực đoan giải phóng mọi cơ chế gò bó, ly dị được hoàn toàn tự do tung cánh và ở một góc độ nào đó, hôn nhân bị đặt vào thế đứng chênh vênh, dễ đổ vì không ngừng bị cám dỗ bởi những « thoải mái, dễ dàng » đến mức không còn bị ràng buộc bởi bất cứ định chế, tương quan nào.          
b.   Do tôn giáo mất dần ảnh hưởng :
Xã hội văn minh, con người thấy mình làm được mọi sự và đột biến thành thượng đế. Tâm thức toàn năng làm con người quên mình cần có tôn giáo. Đó là lý do hôn nhân không còn quy chiếu vào luật lệ, cơ cấu tôn giáo nữa và ảnh hường của tôn giáo giảm sút trầm trọng  trên đời sống hôn nhân, gia đình. Luật « bất khả phân ly » trong hôn nhân công giáo không còn được triệt để tôn trọng như xưa và số người công giáo rơi vào tình trạng « rối » tức là đã  ly dị dân sự, trong khi hôn phối đạo không thể hủy bỏ ngày càng tăng.
Tôn giáo là thành trì vững chắc nhất, nhưng một khi tôn giáo không còn được coi là thành trì, người ta sẽ tự buông lỏng và luân lý, đạo đức sẽ theo đó tự do nổi trôi. Chỉ còn lại lương tâm là tiếng nói sau cùng, nhưng tiếng nói ấy cũng yếu ớt và ít khi can đảm lên tiếng khi thành trì tôn giáo không còn để hướng dẫn, bảo vệ.
c.    Do quan niệm hôn nhân thay đổi:
Hôn nhân không còn được xem là một chọn lựa mang tính vĩnh cửu, đời đời; nghiã là chọn nhau  cả đời, lấy nhau trọn kiếp, sống chung đến chết, chết rồi vẫn thuộc về nhau. Hôn nhân bây giờ là khế ước, hợp đồng. Đã gọi là hợp đồng tức có sự đồng thuận, nhưng cũng dự phòng sẽ có bất thuận. Gọi là khế ước khi hai bên đồng ý những điều kiện được nêu ra, nhưng cũng tiên liệu có thể xẩy ra bất đồng khi một trong hai bên không tôn trọng điều kiện đã được ký kết và khế ước sẽ  mất giá trị, mất hiệu lực và bắt buộc phải hủy bỏ.
Chính vì hôn nhân được quan niệm thuần túy là hợp đồng, khế ước, nên vấn đề bãi bỏ hợp đồng hôn nhân, hủy bỏ khế ước hôn phối là điều không có gì phi lý, nếu đã chấp nhận định nghiã hôn nhân là hợp đồng, khế ước. Người ta sẽ đơn giản cho rằng: khi hợp đồng được thì ở, khi bất đồng thì “vui vẻ” chia tay; khi điều kiện chung được hai bên thoả mãn thì còn vợ chồng, khi điều kiện không còn thích hợp thì thoải mái “bye - bye”. Không ai ân oán, trách móc gì ai, cũng không ai tỵ nạnh, gây gỗ, vì ngay từ đầu đã hợp đồng tay đôi như thế !
d.   Do áp lực tứ phiá đã nhẹ bớt:
Tứ phiá đây phải kề lương tâm, gia đình, xã hội, tôn giáo. Lương tâm thì đã có tự do tháo khoán, cho phép, vì lương tâm thường “ba phải, a dua, dễ bị dụ” khi  lương tâm  mù quáng vì tham vọng, vì không được vững chắc đào tạo. Gia đình buông xuôi, bất lực trước tự do cá nhân. Xã hội mất phương hướng trước những chuyển biến ngày càng nhanh và dữ dội. Còn lại tôn giáo thì vai trò  không được nhìn nhận và ảnh hưởng ngày càng sút giảm.
Chính vì thế, áp lực từ bốn phiá vừa kể không còn là thành trì che chở hôn nhân, nên ly dị được thông thoáng, nhẹ nhàng, nhất là  người trong cuộc không còn nặng lòng với nhiều mặc cảm  “bỏ chồng bỏ vợ’như xưa. 
2.   Ly dị “muôn hình trạng”:
Ngày xưa, ly dị là quyết định  bất đắc dĩ của vợ chồng khi không còn khả thể hàn gắn, hoà giải, sau một thời gian yêu nhau, và chung sống hạnh phúc. Như thế, ly dị là tình trạng không còn hạnh phúc sống chung như vợ chồng, không còn khả thể cùng đi trên một con đường chung về chung một hướng, đến chung một bến bờ, gặp chung một điểm hẹn. Tắt một lời, ly dị là  thất bại của hai người, bất hạnh cho hai người, vì đi lệch  ý muốn và quyết định kết hôn ban đầu của hai người. Người ta không ly dị vì những lý khác ngoài lý do tình cảm, và chỉ khi nào “cực chẳng đã”, không còn giải pháp nào ít xấu hơn, người ta mới đành đưa nhau ra toà xé hôn ước.
Ngày nay, với đủ thứ tự do và nhãn hiệu, băng rôn nhân danh giải phóng, người ta ly dị dễ dàng và nhanh chóng vì đủ lý do. Ngoài ly dị vì thực sự không còn có thể ở chung, còn những ly dị để trốn thuế, ly dị để phân tán tài sản, ly dị để tránh nhà cửa bị tịch biên, ly dị để “ghép phom” đi Mỹ, ly dị để dễ làm ăn, ly dị để đánh lạc hướng đối thủ kinh tế, ly dị để làm áp lực trên cha mẹ, và vô số những kiểu ly dị thần kỳ không thể biết khác…
Vì ly dị qúa dễ dàng, nên ly dị trở thành phương tiện  cho những mục tiêu không còn thuộc phạm vi tình cảm, hạnh phúc, mà biến thái thành phương tiện cho những mục tiêu không chính đáng và thiếu trong sáng, lương thiện.
Ở đây, chúng ta chỉ bàn về hậu ly dị của những ly dị thực sự vì không thể sống chung  hạnh phúc.    
3.   Ly dị vì không thể sống chung hạnh phúc:
“Sống chung” khác “sống chung hạnh phúc”, vì người ta có thể chịu đựng hoặc bị bắt buộc sống chung mà không có hạnh phúc như sống chung trong bệnh viện, nhà tù, trại tập trung, ký túc xá, nhà trọ.  
Đời vợ chồng là đời sống chung có hạnh phúc, vì hạnh phúc là mục đích của hôn nhân. Không ai cưới vợ lấy chồng mà không mong tìm hạnh phúc, nên  sống với nhau mà không đem lại hạnh phúc cho nhau thì đó là một hôn nhân thất bại, hôn nhân bị kết án, hôn nhân trên đường tự  diệt.
Một khi hạnh phúc bị đe doạ, người trong cuộc sống hôn nhân lo sợ và đôn đáo tìm mọi phương thế chống đỡ nguy cơ, ngăn chặn tai ương, hoá giải sức công phá của đối thủ. Vợ thấy chồng có dấu hiệu “say nắng”, nàng sẽ không để nắng tiếp tục làm say chồng, nhưng ra tay tái lập vùng phủ sóng của mình để tránh cho chồng rơi vào “vùng phủ váy”. Đó là phản ứng tự nhiên và cần thiết để bảo vệ hạnh phúc hôn nhân, vì hôn nhân sống nhờ hạnh phúc, và lẽ sống của hôn nhân là hạnh phúc. Thiếu hạnh phúc, hôn nhân không thể tồn tại.
Ly dị là điểm dừng của một hành trình hôn nhân không hạnh phúc, là nhát dao cắt đứt đời hôn nhân không còn lửa yêu thương, là đoạn tuyệt với cuộc sống không còn hứng thú. Nói cách khác, ly dị là bản án  kết thúc đời sống chung của hai người trước đó đã hạnh phúc và nay trở thành gánh nặng bất hạnh cho nhau. Ly dị tự nó là một kết thúc, một chấm dứt, một đứt đoạn, xa lià. Không có gì tích cực ở ly dị, vì tự thân đã là một tiêu cực. Người ta chọn giải pháp ly dị vì không còn giải pháp nào ít xấu hơn, chứ không phải ly dị tự nó là giải pháp tốt đẹp, đáng mong đợi, tìm kiếm.      
Nhưng tại sao vợ chồng trước đó đã hạnh phúc mà nay không hạnh phúc ?
a.   Vì cái Tâm thay đổi:
Không gì thay đổi nhanh, kín đáo, triệt để, rốt ráo, tận cùng bằng cái Tâm của con người. Tâm là cái đáng yêu mà cũng đáng sợ nhất ở con người. Người có Tâm là người có lòng tốt, lòng nhân, lòng trung nghiã, lòng đạo hạnh, lòng bác ái, vị tha. Người không có Tâm là người gian ác, xảo trá, lật lòng, bất nhân, bất trung, bất nghiã, bất hiếu. Vì Tâm ở trong con người, nên khoảng cách từ “có Tâm” đến “không có Tâm”  rất gần  chỉ cách nhau một chữ “không” gồm một vần, một âm rất ngắn gọn.
Tâm tay đổi không ngừng: Đang tử tế trở thành đểu cáng, đang tuân phục  thành ngược ngạo. Người ta thay lòng đổi dạ tùy theo thời cơ, hoàn cảnh, vị thế. Thời hàn vi, Tâm có thể trong sáng, khiêm tốn, chân chất, thật thà, nhưng đến thời “đại phát” , thời “trưởng giả học làm sang”, người ta đánh mất cái Tâm thành, Tâm thiện và biến thành ông này bà nọ chảnh chọe, phách lối, độc ác, kiêu kỳ. Mới yêu nhau và về nhà chồng, người vợ đẹp trong mắt chồng, dễ thương trong tim chồng, ngoan ngùy trong nhà chồng, đằm thắm với họ nhà chồng, biết điều với bạn bè chồng, và trung tín với chồng nhờ tâm hồn đơn sơ, cái Tâm tuyệt vời. Nhưng tháng ngày trôi, khi làm ra tiền nhiều hơn chồng, ngoại giao sành sỏi hơn chồng, người vợ ấy  biến đổi thành bà tướng, “bà chằng” chẳng kính nể ai, không còn yêu chồng như ngày nào vì thành công tuyệt đỉnh và  kép trẻ xếp hàng chờ đến lượt. Cũng thế, người chồng xưa vốn  hiền hậu, tận tụy, hy sinh bỗng trở mặt hiếp đáp vợ, đánh đập con, khinh mạn gia đình vợ, vì cái Tâm của chàng đã thoái hoá, biến đổi.
Tâm chính là tổng hành dinh, cơ sở chỉ đạo điều hành mọi sinh hoạt đời sống. Tâm thiện, tâm lành phát sinh tư tưởng tốt, hành vi nhân hậu. Tâm ác độc, tâm mù qúang  chỉ sản sinh ý nghĩ gian tà và hành động đồi bại. Không thể có tâm độc mà đời sống tốt, cũng không có đời sống tốt nếu Tâm không được tu, tánh không được dưỡng.
Tu tâm để tâm không động bừa bãi theo đòi hỏi của bản năng và khuynh hướng xấu. Dưỡng tánh để đời sống không bị dục vọng như nước lũ cuốn trôi. Tâm tánh phải vững chắc để trụ lại trong đời đạo đức. Tâm tánh phải bền bỉ để không lạc lối về quê hương Hạnh Phúc. Tâm phải thiện để nắm cờ lệnh, quyết định tiến lùi, thắng thua; bởi có thể mọi người ao ước, và mọi việc đã chuẩn bị, nhưng Tâm của chủ thể không thuận thì chẳng có gì thành tựu. Ngay cả Trời muốn mà lòng người không muốn thì mọi công trình cũng sẽ dang dở, bất thành.
Cái Tâm rất quan trọng, nhưng không mấy người để ý đến Tâm và quan tâm giáo dục. Tâm con người cũng chính là  con người cần phải được gìn giữ, xây dựng, phát huy. Tâm không như cỏ dại phóng túng mọc bên đường, nhưng cần được hướng dẫn có hướng có đường: Hướng thiện và đường ngay nẻo chính.   
b.   Vì môi trường sống không lành mạnh:
Con người, ngoài cái Tâm, còn chịu ảnh hưởng của môi trường sống, vì con người là con vật có xã hội tính, nên người chung quanh, bè bạn, gia tộc rất cần thiết cho con người phát triển quân bình về mọi mặt. Nhưng cũng vì cần, mà môi trường tác động không ít trên nhân cách, chọn lựa của con người.
Vợ chồng được bao bọc bởi những người tốt sẽ tránh được nhiều cạm bẫy, cám dỗ đưa đến trác táng, sa đoạ. Người chồng chỉ giao du, thân thiện với  những người xấu, thì trước sau sẽ xấu như họ. Sẽ khó tránh say xỉn một ngày nếu ngày đêm theo chiến hữu vào qúan nhậu. Làm sao tránh khỏi bỏ vợ bỏ con, nếu  không chịu vắng bóng ở  phòng trà, trên sàn nhẩy, qúan bia ôm, nhà trọ massage. Nghe riết những lời thị phi khích bác, bôi nhọ cha mẹ chồng hay cha mẹ vợ, hỏi làm sao không có ngày trút giận, đổ hờn lên chồng, vợ ?  Gần mực thì đen là thế, nhưng ở đây hơn cả gần vì đang dìm mình trong mực, hỏi làm sao tránh khỏi đen đúa ?
Môi trường tốt cũng như làn khí trong lành, không ô  nhiễm. Những đổi thay làm đổ vỡ hôn nhân hầu hết đều do ảnh hưởng xấu của môi trường  xấu. Chị vợ đua đòi chưng diện, anh chồng dở chứng “tứ đổ tường”  hầu như đều bắt đầu bằng ham muốn “phải bằng anh bằng chị”, không chịu thấp cơ, thua kém ai. Và khởi đầu đua đòi ấy đã kết thúc bằng thảm họa ly dị, khi hai người không còn nhận ra nhau như hai người bạn đồng hành tay trong tay, vai sánh vai, lòng bên lòng, đồng tâm nhất trí trên đường tìm Hạnh Phúc.    
c.    hai siêu vi trùng cực nguy hiểm : gian dối và bạo lực:
Hạnh phúc là em bé rất ngây thơ, thành thật. Em bé Hạnh Phúc không biết  ăn gian, nói dối, và rất sợ bị người khác lừa gạt. Vì thế, em bé Hạnh Phúc rất kín đáo, thường e ấp dấu mình và tế nhị, chân thành khi lộ diện. Em dị ứng với những gì không thật. Không thật với em được hiểu như không yêu em, và gian dối là độc dược giết chết em. Em bị đột tử khi chồng bị vợ phát giác có bồ nhí, có con rơi, có em út chân dài, có nuôi “gà móng đỏ” . Em bị “nhồi máu cơ tim”  bất đắc kỳ tử, nếu chẳng may chồng biết vợ đang nằm trong tay người đàn ông lạ, hay đang đầu tư nuôi trai tơ. Và tất cả những gì không thật khác như mánh khóe, gian lận, lừa đảo tiền bạc, của cải… đều làm em ngã bệnh trầm trọng.
Bên cạnh gian dối là bạo lực. Em bé Hạnh Phúc, vì bé  bỏng nên sợ bị bạo hành,  đánh đập. Ông chồng mà “thượng  cẳng tay, hạ cẳng chân”  là em bé Hạnh Phúc bỏ nhà đi ngay. Chị vợ mà đanh đá, dữ dằn, chanh chua nhiếc mắng chồng không mỏi miệng là xua đuổi em tứ khắc. Là Hạnh Phúc, em không thích sống trong bạo lực, với đám vũ phu, và gian dối.
Không biết bao nhiêu gia đình đã tan nát vì vợ chồng không tin nhau, hoặc hung dữ bạo hành. Tình yêu vợ chồng đặt trên nền tảng của lòng tin và tình âu yếm, dịu dàng. Gian dối giết tình yêu, cũng như bạo lực làm  hạnh phúc chết ngạt. Cả hai không cho tình yêu sống, và hạnh phúc tồn tại, nên dù tình yêu trước đó có đẹp đến đâu, chuyện tình có thơ mộng lý tưởng  cỡ nào  cũng đành buông tay nhắm mắt  vì sức tàn phá không gì có thể đề kháng của siêu vi trùng gian dối và bạo lực.   
d.   Vì vợ, chồng có qúa nhiều tính xấu:
Không ai là thánh, nên sức chịu đựng của mỗi người đều có giới hạn. Sống chung với một người không bỏ sót một tính xấu nào thì có Trời cũng phải bỏ trốn. Nết xấu hay tính tốt là do luyện tập. Sống ươn lười, bê tha, hung dữ, gian xảo, lăng loàn là sống theo bản năng, mà đã trót làm người tất phải chế ngự chúng, nếu không con người sẽ không hơn con vật. Ý thức tốt xấu và  ý chí tự do cho phép con người vượt trên bản năng khi làm chủ chính mình để sống đúng nhân phẩm, nhân vị, nhân cách. Chính những  “Nhân” này làm con người là người đích thực, người cao cả, người cao thượng, người cao qúy.
Có những tính xấu bỏ qua được, nhưng  có những nết xấu làm chết người, giết hạnh phúc, ngăn chặn  đường tương lai như ghen tuông vô cớ, tham lam vô độ, và lẳng lơ, sàm sỡ vô duyên.
Người ghen tuông vô cớ  là người ích kỷ vì luôn muốn sở hữu người mình yêu. Ghen tuông với bất cứ ai, ghen tuông vì bất cứ lý do lớn nhỏ nào, ghen tuông không suy nghĩ để tìm căn cớ, nguyên nhân, người ghen tuông vô cớ hủy hoại hạnh phúc của chính bản thân mình vì cơn điên rực lửa ghen tuông không ngừng thiêu đốt tâm hồn; đồng thời nghiền nát người mình yêu vì  sở hữu họ một cách bệnh hoạn và mù quáng. Thực ra, người ghen tuông vô cớ  không yêu ai, nhưng chỉ yêu mình. Họ bực tức, khổ sở khi ghen tuông chỉ vì sợ mất quyền làm  chủ nhân duy nhất trên vợ chồng mình.
Người tham lam vô độ cũng là người ích kỷ.  Chỉ nghĩ về mình, chỉ vun vén cho mình, chỉ một mình hưởng thụ nên mới vô độ tham lam. Đã tham lam thì chẳng bao giờ chia sẻ, nên làm chồng, vợ của  người tham lam, người ta suốt đời  chẳng được sẻ chia. Người tham lam vật chất cũng là người tham lam tinh thần. Ở họ, chẳng ai được gì và mọi người chỉ là những mồi ngon thoả mãn lòng tham không đáy, vô độ của họ.
Lẳng lơ, sàm sỡ vô duyên tưởng chỉ là thiếu sót nhỏ, không ảnh hưởng lớn trên hạnh phúc lứa đôi, nhưng thực tế, đó là những mũi dao sắc nhọn làm mất máu hạnh phúc hôn nhân nhiều nhất.
Người vợ lẳng lơ không được gọi là người vợ hiền thục, đằm thắm, đoan trang, tế nhị. Nàng sẽ làm gia đình xào xáo vì những quan hệ dễ dãi, hời hợt tuy bề ngoài xem ra không trầm trọng, nhưng thực tế  sẽ kín đáo làm  tình yêu và hạnh phúc  của vợ chồng hao mòn mất máu. Người chồng sàm sỡ thì dù có duyên đến mấy cũng chỉ là anh chàng vô duyên khi những lời trăng hoa, tán tỉnh rẻ tiền nhưng nặng ý tứ của anh làm tan hạnh phúc gia đình, như người ta không vấp ngã vì một ngọn núi sừng sững trước mặt, nhưng té ngã vì viên sỏi, cục đá. Những chuyện nhỏ tưởng linh tinh như vài ba câu bông đuà, không ý tứ có thể là nguyên nhân chính dẫn đền ly tán gia đình một ngày.      
e.    Vì không cùng quan niệm sống, không cùng chính kiến, không cùng khát vọng thiêng liêng, không cùng ước mơ lý tưởng.
Tất cả những khác biệt luôn có thể làm phong phú hai người yêu nhau, nếu cả hai ý thức mình cần được bổ túc bởi người bạn đường, và mình cũng góp phần làm giầu cho người ấy bằng những “cái khác” chỉ riêng mình có. Hãy nhìn cơ thể của nam và nữ, ta sẽ thấy Thượng Đế tạo hai người nam - nữ rất khác biệt, nhưng nếu không khác biệt thì lấy gì để quyến rũ, thu hút nhau. Nếu nàng có hết những gì chàng có, và ngược lại chàng chẳng thiếu phần thân thể nào của nàng thì hỏi hai người sẽ có gì riêng biệt để cho nhau, có gì bí mật để lôi cuốn, “mời mọc” nhau ? Thượng đế khôn ngoan và lãng mạn đã để những khác biệt ở  người nam và người nữ , để họ mê say khám phá nhau, ngụp lặn hạnh phúc trong đại dương bí mật của nhau, và mãi mãi đắm đuối mạo hiểm cuộc đời nhau.  Khác biệt của vợ chồng  qủa thật huyền nhiệm, tuyệt vời !
Nhưng những khác biệt về quan niệm sống, chính kiến, khát vọng thiêng liêng, ước mơ, lý tưởng, nếu không được cả hai đồng thuận trong suy nghĩ vừa kể sẽ dẫn đến nhiều mâu thuẫn, đối kháng trong đời sống chung. Chồng sẽ khó chiều được vợ, và vợ cũng sẽ bó tay, nếu suốt ngày “ông nói gà, bà nói vịt”, rồi to tiếng tranh đấu, giằng co.
Vì thế, vợ chồng không nên coi thường những bất đồng, dù là những bất đồng nhỏ. Chúng nhỏ nhưng rì rỏ đêm ngày cũng sẽ lấy hết máu của tình yêu và làm cạn kiệt nhựa sống của cây xanh Hạnh Phúc. Đừng quên tình yêu, hạnh phúc hôn nhân rất khó nuôi, nên chỉ sơ ý, vô tình, tình yêu có thể đau bệnh và hạnh phúc vỡ tan.
f.     Vì trục trặc trong sinh hoạt chăn gối:
Một trong những nguyên nhân quan trọng đưa đến ly dị là những trục trặc trong sinh hoạt chăn gối. Vợ chồng không chỉ hạnh phúc vì có người chia sẻ tâm tình buồn vui, ước mơ, hoài bão, mà còn  hạnh phúc vì được chia sẻ thân xác nhau. Chuyện ăn nằm, ân ái là chuyện rất quan trọng trong đời sống hôn nhân, vì hôn nhân tìm được nguồn khoái cảm tuyệt vời trong hảnh động ân ái, giao hợp. Lấy chồng mà không được hưởng hạnh phúc làm vợ thì thật đáng thương một đời con gái đi lấy chồng. Lấy vợ mà không được thoả mãn nhu cầu sinh lý với vợ thì qủa thực không còn gì ấm ức, bực bội, chán nản hơn. Chuyện vợ chồng gần gũi thân xác là chuyện phải được cả hai người quan tâm, để những giây phút nằm bên nhau trở thành  thời gian thư giãn, khoảng khắc bình an, thời điểm biểu lộ trọn vẹn và tuyệt vời tình yêu dâng hiến cho nhau. Chính trong bầu khí thân mật, riêng tư của vợ chồng, hạnh phúc hôn nhân được thăng hoa, nở rộ.
Khó có thể là người chồng hoàn hảo trong sinh hoạt chăn gối, cũng như khó là người vợ tuyệt vời khi ân ái, gần gũi chồng. Đó là ý nghĩ tiêu cực thường  ám ảnh vợ, chồng . Những ý nghĩ tiêu cực phát sinh từ một vài khiếm khuyết trong những lần ân ái đã hằn sâu trong tâm trí vợ, chồng và ảnh hưởng không tốt đến sinh hoạt chăn gối. Vì thế, việc đầu tiên vợ, chồng phải làm, đó là xóa khỏi tâm trí mặc cảm “yếu xìu, thiếu kinh nghiệm, bất lực, không đủ sức” để vui vẻ, thoải mái chia sẻ hết tình và hết mình với chồng, vợ sinh hoạt ân ái. Thực ra, khả năng đem lại hưng phấn, hạnh phúc tuyệt vời cho người bạn đời không chỉ hệ tại ở kỹ năng, nhưng phần lớn do thái độ nhiệt tình, tình cảm nồng nàn, cử chỉ âu yếm, hành động cưng chiều và lòng tôn trọng, hỗ tương nhau.
Vì nắm giữ vai trò quan trọng trong hạnh phúc hôn nhân, sinh hoạt chăn gối của vợ chồng không được trở thành nhàm chán, không hứng thú, thiếu sáng kiến như gánh nặng phải mang. Hãy biến những lần ân ái thành những cuộc mạo hiểm kỳ thú ở đó cả hai người cùng hăm hở, say mê khám phá kho tàng hạnh phúc. Có như vậy, hôn nhân mới đứng vững và phong phú triển nở, tránh được đổ vỡ, ly tan bằng đọan kết ly dị.
Như thế, ly dị có nhiều bộ mặt, nhiều nguyên nhân, nhiều động lực khác nhau, nên sẽ không có hai cuộc ly dị y hệt nhau, như chẳng bao giờ có hai cuộc tình với những người tình  cùng một “kích thước” thân xác và cùng “trọng lượng”  tâm hồn. Đó là lý do không ai có thể phán xét một cuộc ly dị mà không sợ sai lầm, hồ đồ, phiếm diện, thiếu công bình. Mỗi cuộc ly dị là một hoàn cảnh duy nhất, đặc thù, không thể lặp lại, so sánh, vì có hai chuyện tình nào hoàn toàn giống nhau ?
Qua một vài nét về ly dị, chúng ta có được cái nhìn tổng quát về hiện trạng ly dị ngày càng đáng báo động. Điều này thúc đẩy chúng ta đề cập những vấn đề của hậu ly dị, tức tìm những giải pháp thích hợp để đời sống ly dị không trở thành ngõ bí, đường cụt cũng thê thảm, nặng nề, và ngột ngạt như những tháng ngày tiền ly dị.




HẬU LY DỊ

Lời Ngỏ!
Tôi còn nhớ, ngày xưa khi còn bé, nghe đến hai chữ ly dị là mắt mẹ tôi trợn trừng bực bội, vì bà cụ gớm ghiếc chuyện vợ chồng bỏ nhau, kinh tởm cảnh ly thân, ghét cay ghét đắng những ai ly dị và kịch liệt lên án những ý đồ đem nhau ra toà xé hôn thú.
Mẹ tôi qua đời đã gần mười năm. Chỉ trong mười năm gần đây, con số ly dị tăng vọt với tốc độ chóng mặt và thống kê mới nhất của Pháp cho ra con số làm lạnh xương sống những ai sắp bước vào đời hôn nhân : 37,8 % các cặp vợ chồng ly dị sau 5 năm  chung sống.
Ba mươi bẩy phẩy tám phần trăm là tỷ lệ ngất ngưởng và làm chóng mặt nhiều người, nhất là các bậc cha mẹ, trong số đó có mẹ tôi. Và tôi  không biết nếu mẹ  còn sống, liệu bà có chịu nổi khi nghe nhiều cháu của bà đã ly dị, nhiều gia đình trong xóm đã tan vỡ, nhiều người quen biết có con ly thân hoặc chính họ cũng đã vừa giải quyết xong chuyện gia đình bằng phương án ra toà ly dị.
Thế giới hôm nay thay đổi rất nhanh và tận căn gốc. Ly dị ngày xưa là điều cấm kỵ. Gia đình có người ly dị bị bà con thân tộc, láng giềng khinh chê, và người ly dị rất khó hội nhập vào đời sống xã hội. Ly dị ngày nay là chuyện bình thường, « không có gì phải ầm ĩ » đôi khi còn được coi là thời trang ăn khách, thức thời, hợp thời, chịu chơi, nắm bắt trào lưu, theo kịp thời đại…Ngày xưa ly dị là điều không nên, đáng buồn, đáng trách. Ngày nay ly dị là chuyện nhỏ giữa hai người, và đơn thuần là cách giải quyết đơn giản, nhanh chóng, gọn nhẹ mâu thuẫn vợ chồng. Ngày xưa để ly dị phải mất ít là một năm với đủ thủ tục rắc rối và nhiều lần gặp gỡ để hoà giải. Ngày nay chỉ cần một tháng,  hầu toà mươi phút, nếu cả hai đồng thuận chia tay.
Những nguyên nhân đưa đến ly dị cũng thay đổi nhiều. Ngày xưa nguyên nhân phải chính đáng, rõ ràng, thực sự. Ngày nay, chỉ cần cảm thấy chán là có thể  nộp đơn ly dị. Người ta ly dị dễ dàng với bất cứ một lý do cỏn con nào, một câu chuyện bá láp, tàm xàm  cũng có thể được thổi phồng, phóng đại thành những nguyên nhân lớn, nhân tố quyết định dưới bình phong nhân quyền, lớp áo nhân vị, lá bùa nhân phẩm để đạt mục đích ly dị.       
Như thế, nguyên nhân ly dị, thủ tục ly dị, quan niệm về ly dị đã thay đổi và  thuận lợi cho người ly dị, nhưng những vấn đề hậu ly dị, những việc phải làm sau ly dị, những khó khăn phải giải quyết khi hôn thú đã được chính thức xé bỏ vẫn còn là vết thương làm nhức nhối và là nan đề đối với hai người trong cuộc. Họ vẫn nặng một quá khứ, vẫn chênh vênh một nỗi niềm, vẫn choáng váng một thất bại, và vẫn mê mê tỉnh tỉnh một cơn say. Hai người ly dị vì thế ít nhiều sẽ mất quân bình tâm lý, vì thế thăng bằng xã hội vừa bị sụp đổ.
Tập chia sẻ đến với bạn như bàn tay người bạn đường luôn yêu thương và sẵn sàng đồng hành. Bàn tay ấy xin được nắm chặt tay bạn trên đoạn đường tạm gọi là gập ghềnh, khó đi của thời hậu ly dị với ước mơ trao gửi bạn tâm tình tương kính, cảm thông,  chia sẻ. Nhờ đó, chúng ta sẽ vượt qua nhiều cạm bẫy nguy hiểm của khúc quanh hậu ly dị này.
Jorathe Nắng Tím