Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn
đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa
các ông và nói: “Bình an cho anh em!”. Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh
sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Người lại nói với các ông: “Bình
an cho anh em! Như Chúa Cha sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em. Nói xong,
Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,19-22).
Tin Mừng trình bầy cảnh gặp gỡ rất thân tình và cảm động
giữa Đức Giêsu và các môn đệ: Đức Giêsu thì mới chịu khổ hình và đóng đinh cách
đây ba ngày, vừa sống lại và hiện ra với
các môn đệ với đầy đủ thương tích Thánh
Giá trên mình; các môn đệ thì vửa trải qua những ngày tang thương khi Thầy bị đóng
đinh, cơ đồ Cứu Thế hoàn toàn sụp đổ, ước mơ làm lớn trong Vương Quốc của Thầy
tan thành mây khói, chưa kể những mất mát, thua lỗ, thiệt thòi sau ba năm “bỏ
cha mẹ, vợ con, sự nghiệp, của cải” để đi theo Đức Giêsu, và dấu vết của những
ngày khủng hoảng kinh hoàng vẫn còn đọng
trên những đôi mắt ngơ ngác vì lo lắng, sợ sệt. Bằng chứng là “các cửa nơi các
ông ở đều đóng kín”.
Như thế, Đức Giêsu đã hiện ra giữa các môn đệ với hình
hài một người Thầy khiêm hạ vừa chịu khổ hình và đóng đinh, mà các dấu đinh
trên tay chân và vết thương do lưỡi đòng đâm sâu ở cạnh sườn còn mở toang rỉ
máu. Ngài đã đến với các môn đệ với thân xác của một con người khiêm hạ, không
mang vinh quang, chiến thắng của ngày phục sinh khải hoàn. Ngôn từ và thái độ của
Ngài cũng nhẹ nhàng, dịu dàng, thân tình, đằm thắm, chứ không sặc mùi huyênh
hoang, ồn ào, thách đố, máu lửa của người
kiêu căng, hãnh tiến. Ngài đã đến sau khi sống lại với con người Thiên Chúa rất
khiêm hạ.
Về phiá các môn đệ, các ông cũng đang ở trong tình trạng
và mang tâm trạng của những người khiêm hạ, khi nhận ra mình rất bé nhỏ, bất lực,
nhiều giới hạn đang run rẩy trước nhiều nỗi lo sợ. Các ông không chỉ sợ người
Do Thái truy lùng bắt bớ để nhổ tận rễ, bứng tận gốc “nọc độc Giêsu” với thứ
tin mừng phạm thượng Thiên Chúa Giavê, chống báng Luật Môsê, đả kích hàng Tư Tế,
Kỳ Mục, và làm xáo trộn mọi sinh hoạt xã hội, tôn giáo, mà còn sợ tương lai đen
tối, mù mịt, sợ ngày mai không điểm tựa, lối thoát, sợ đường dài trước mặt hoang vắng, bẽ bàng, đơn độc.
Trong căn phòng đóng chặt cửa vì sợ hãi ấy, Đức Giêsu
khiêm hạ đã đến giữa các môn đệ khiêm hạ của Ngài, và ban Bình An phục sinh của
Ngài cho các ông.
Ngài đã ban Bình An của Ngài là “tôi trung Thiên Chúa”
sau khi đã khiêm hạ vâng lời Chúa Cha “hoàn toàn trút bỏ vinh quang” của Thiên
Chúa, và nhất quyết từ giã “địa vị ngang hàng với Thiên Chúa” của mình, để xuống
thế làm người, sống kiếp phàm nhân như mọi nguời; Ngài đã ban Bình An của Ngài
là “Chiên Thiên Chúa” sau khi đã khiêm hạ thực thi ý muốn của Chúa Cha là “bằng
lòng chịu chết trên cây thập tự” như kẻ có tội để chuộc tội người khác.
Qủa thực, Đức Giêsu đã chờ cho đến khi thực hiện xong
sứ vụ rất khiêm hạ của người Tôi Tớ trung tín và của Con Chiên chịu hiến tế mới
chính thức ban Bình An của Ngài cho các môn đệ và mọi người, bởi Bình An của Ngài
là hoa trái của Khiêm Hạ, Bình An của Ngài là Bình An mà thế gian không ban được
do được cưu mang, nuôi dưỡng bằng máu, nước mắt của một Thiên Chúa khiêm hạ vô
cùng, Bình An đến từ đinh sắt, lưỡi đòng, mão gai đã hằn sâu trên thân xác đẫm
máu, rũ liệt trên Thánh Giá của một Thiên Chúa khiêm hạ đã xuống tận đáy sâu của
thân phận phàm nhân tội lỗi vì yêu thương.
Đức Giêsu đã ban Bình An với thân xác phục sinh khiêm
hạ còn thương tích, vì Bình An đích thực, Bình An viên mãn, Bình An đời đời, Bình
An mà không ai ban được, cũng không người nào có quyền lấy đi ấy đến từ trái
tim của một Thiên Chúa vô cùng khiêm hạ đã hạ mình làm người và chịu chết. Đó là
lý do Chúa Cha “đã siêu tôn Người và ban tặng danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn
danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và
trong nơi âm phủ, muôn vạt phải bái qùy; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài
phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2,9-11).
Nhưng nếu Bình An đã được ban bởi một Thiên Chúa khiêm
hạ là Đức Giêsu, thì người nhận ơn Bình An tuyệt vời ấy cũng phải là những con
người có tấm lòng khiêm hạ, bởi Bình An của Thiên Chúa khiêm hạ không thể đến và
ở lại trong tâm hồn của kẻ tự cao, kiêu ngạo, vì Thiên Chúa chống lại và “dẹp
tan phường lòng trí kiêu căng, hạ bệ những ai quyền thế” (Lc 1,51-52).
Khi được Đức Giêsu ban Bình An, các môn đệ ở trong tình
trạng sẵn sàng để đón nhận Bình An của Thầy mình, bởi các ông là những người
khiêm hạ, và càng khiêm hạ hơn sau những ngày dồn dập nhiều biến cố đau thương,
vô vàn đổ vỡ ê chề, chồng chất những thất bại đắng lòng, xót xa.
Một điều chúng ta cần ghi nhận ở đây, đó là Đức Giêsu đã
không ban Bình An của Ngài cho các môn đệ để các ông tiếp tục ở lỳ trong phòng đóng
chặt cửa, lấy cớ “còn sợ người Do Thái”, nhưng Ngài thổi hơi để các ông nhận ơn
Chúa Thánh Thần hằng ban cho những con người khiêm hạ và sai các ông đi, như Chúa
Cha đã sai Ngài xuống thế gian làm con người khiêm hạ, chết khiêm hạ trên thập
giá để cứu những người khiêm hạ nhận mình có tội và cần đến lòng Chúa xót thương.
Như thế, để nhận ơn Bình An của Đức Giêsu, Thiên Chúa
khiêm hạ, chúng ta cũng phải như các môn đệ đã khiêm hạ nhận mình yếu đuối khi “sợ
hãi đóng kín các cửa”, biết mình nhiều khiếm khuyết, bất toàn và luôn cần được
xót thương, bởi chính tinh thần khiêm hạ là điều kiện để ơn Bình An của Đức Giêsu
phục sinh ở lại với chúng ta; chính tâm hồn khiêm hạ là “căn phòng” Đức Giêsu
muốn đến và ban Bình An của Ngài; chính trái tim khiêm hạ là Đền Thờ Đức Giêsu muốn ngự, và là Mái
Ấm Bêtania Ngài muốn ở lại dùng bữa, và nghỉ ngơi.
Là người được sai đi với sứ vụ loan báo Tin Mừng, chúng
ta cũng như các môn đệ năm xưa cần ơn Bình An của Đức Giêsu phục sinh, bởi không
có ơn Bình An từ đường Thương Khó và Thánh Giá khiêm hạ của Đức Giêsu, không có
sức mạnh của Chúa Thánh Thần trên người môn đệ biết khiêm hạ, chúng ta sẽ không
đủ tình yêu để “bỏ mọi sư” khi được Đức Giêsu kêu gọi, càng không đủ niềm vui để
lên đường khi được Ngài sai đi, bởi chỉ người có tâm hồn khiêm hạ mới có được tình
yêu và niềm vui của người môn đệ, nhờ được đón nhận trong khiêm hạ ơn Bình An
phục sinh của Ngôi Lời vô cùng khiêm hạ.
Xin Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người khiêm hạ ban cho các
tôi tớ của Chúa ơn khiêm hạ để làm chứng
Nước Trời đang ở giữa mọi người bằng sống Niềm Vui của Tin Mừng, Hy Vọng của Lời
Hứa và Lòng Thương Xót của Thiên Chúa nhân hậu.
Jorathe Nắng Tím