Bên giường người bạn những ngày cuối cùng của đời người, sau hơn bốn năm chống chọi với căn bệnh ung thư, tôi phần nào cảm được nỗi sợ ở người biết mình sắp giã từ cuộc đời, người đời để vĩnh viễn ra đi, không bao giờ trở lại. Trong nỗi sợ của người sắp ra đi ấy, tôi nhận ra nỗi sợ của chính mình…
Tôi nhận ra mình sợ đau trong nhăn nhó, quằn quại của bạn tôi mỗi lần ngưng thuốc giảm đau. Nhìn bạn toát mồ hôi hột, co dúm người, rên xiết van xin y tá tăng liều lượng morphine, mà chân tay tôi bủn rủn vì sợ.
Tôi nhận ra mình sợ xa người thân, khi thấy bạn tôi nghẹn ngào, hai giòng lệ chảy dài, mỗi lần vợ con, bạn hữu ghé thăm, và đau đớn giấu mặt nức nở khi người thân tạm biệt ra về.
Tôi nhận ra mình sợ bị bỏ rơi, quên lãng, khi bạn tôi thèm được người đến thăm nắm chặt bàn tay, hay âu yếm xoa nhẹ đôi bàn chân gầy xơ xác, trắng bệch.
Tôi nhận ra mình sợ khoảng không chơi vơi, trống trải không điểm tựa, không trụ bám, khi đôi mắt vô hồn của bạn tôi bâng quơ lạc lõng như ở một cõi vô định nào đó vô cùng xa xôi.
Tôi nhận ra mình sợ bị trừng phạt, khi toàn thân bạn tôi run rẩy sợ hãi và miệng ú ớ hốt hoảng đến thảm thương.
Tôi nhận ra mình sợ tan biến vào hư vô, khi đôi mắt hoắm sâu, vàng vọc, thất thần của bạn tôi lạnh lùng và cay đắng quét dài trên thân xác tàn tạ, cạn kiệt sức sống của chính mình.
Tôi nhận ra mình sợ thần chết nham nhở và tàn nhẫn với lưỡi hái sắc nhọn đã chực sẵn ở đầu giường, khi đôi bàn tay bạn tôi cứ quờ qụang tìm đường trốn chạy.
Vâng, bên giường bạn tôi ở những ngày sau cùng của một đời người, tôi thực sự biết sợ, khi tận mắt nhìn bạn tôi sợ : sợ đau, sợ bị bỏ rơi, sợ bị trừng phạt, sợ chơi vơi, sợ bị tan biến, sợ sẽ vỡ vụn, sợ đi vào hủy diệt, hư vô …
***
Rồi bạn tôi chết… Những ngày bên xác bạn, tôi miên man nghĩ về một ngày đến phiên mình chết. Tuy sợ, rất sợ, nhưng tôi liều một phen đối diện với cái chết, trực diện với thần chết và tự đặt mình vào tình huống của giờ chết, với mục đích tìm cho mình cách thế nào để bớt sợ, bớt hốt hoảng, bớt kinh hoàng, bớt khủng khiếp khi đến phiên mình hấp hối, lâm chung.
Nhưng dù đã khó nhọc tìm kiếm trong kho tàng tri thức của nhân loại, tôi cũng không gặp được bí quyết nào để chết mà không sợ, chết mà không lo, chết mà không hoang mang, hãi hùng, mà chỉ thấy và bị ám ảnh mãi những gì tôi đã thấy ở bạn tôi trước giờ chết : cô đơn và bất lực. Tôi sẽ như bạn tôi cô đơn, vì không ai chịu chia sẻ với tôi cái chết, không ai chịu chết theo tôi cho có bầu có bạn trên đường vào cõi chết chưa một lần khám phá, tham quan ; tôi sẽ như bạn tôi bất lực, vì không còn làm chủ được bất cứ sự gì trong tôi, thuộc về tôi, liên quan đến tôi, nhưng nhắm mắt, xuôi tay, xương cốt rã rời, hơi thở vội vã, sự sống hối hả tàn lụi. Bên cạnh cô đơn và bất lực của chính mình là bất lực toàn phần của toàn thể thế giới loài người trước cái chết của tôi, bởi không ai có thể kéo dài thêm cho tôi một giây sự sống, không người nào có thể thay đổi số phận phải chết của tôi, và không quyền lực trần gian nào có thể cứu tôi ra khỏi sự chết.
Chính trong bế tắc tuyệt vọng của tư duy về sự chết, tôi nhận ra mình chỉ còn duy nhất một khả thể là bám víu vào Thượng Đế toàn năng với niềm hy vọng không bị trừng phạt, và tiêu diệt.
Niềm tin lúc này với tôi qủa thực không còn là mê tín, thừa thãi, ấu trĩ, hoang đường, vì chỉ còn lại niềm tin mới cứu tôi ra khỏi hãi hùng, kinh sợ ; chỉ niềm tin mới cho tôi an lòng ; chỉ niềm tin mới ban cho tôi niềm hy vọng, bởi chính mắt tôi đã thấy người sắp chết không bám víu, nương tựa được vào ai, vì không ai còn là bến bờ hy vọng, thành quách an toàn, nơi nương náu chở che bảo đảm , do luật lệ nghiệt ngã của sự chết là mỗi người phải ra đi một mình, không hành trang, không sức vóc, không tài năng, không của cải, không quyền lực, không bạn đường, không người hướng đạo. Niềm tin với tôi bỗng dưng không còn là đồ trang sức xa xỉ, phụ tùng rẻ tiền, nhưng thiết yếu đến độ nếu không tin, tôi không thể sống nổi vì qúa sợ chết, không còn bình an để làm việc vì cảnh tượng hấp hối bi thương ám ảnh nặng nề, và tôi nhận ra tôi chỉ còn duy nhất một Đấng Chủ Tạo đã cho tôi vào đời, làm người là nơi tôi phải đặt trọn niềm tin.
Tôi thấy mình có quyền đặt niềm tin ở Ngài, vì chỉ mình Ngài mới có thể cứu tôi, và tôi tin rằng chính Đấng ấy sẽ gọi tôi ra khỏi cuộc đời, đi vào một thế giới khác cũng thuộc về Ngài, qua ngưỡng cửa sự chết, như Ngài đã gọi tôi vào cuộc đời, trong thế giới thuộc về Ngài mà tôi đang sống, qua ngưỡng cửa sự sống. Lý trí tự nhiên và suy luận hợp lý cho phép tôi tin rằng : phải có một Đấng toàn năng đã cho tôi vào đời làm người, và suốt cuộc đời, Đấng ấy đã gìn giữ tôi để tôi được tồn tại, nên tôi cũng có quyền và được thúc bách tin rằng : cũng chính Ngài sẽ dắt tôi đến tận cùng của hành trình dương thế để vào một cuộc sống khác, cũng do Ngài sắp xếp, chuẩn bị, bởi Ngài là Thượng Đế, là Đấng Tạo Dựng mà tôi trực giác thấy : luôn yêu thương mọi loài Ngài đã dựng nên và cho chúng hạnh phúc trọn vẹn và tương lai tốt đẹp, ngời sáng. Cũng lý trí và trực giác, tôi nhận ra Ngài là Thượng Đế của Tình Yêu đã tạo dựng vũ trụ và con người vì yêu thương, để tất cả mọi loài được sinh ra từ tình Ngài yêu thương sẽ được trở về với Ngài là nguồn yêu thương tuyệt đối.
Một khi đã nhận ra Ngài là Yêu Thương tuyệt đối, Yêu Thương vô cùng, Yêu Thương đời đời trung tín, tôi sẽ nhận ra một chân lý khác là chính Ngài sẽ bảo đảm cho giờ chết của tôi, nói cách khác, tôi tìm thấy nơi Ngài bảo đảm vững chắc cho tôi không sợ khi giờ chết đến, không phải run rẩy khi phải lìa đời, không chút hoang mang, tuyệt vọng khi phải « cô đơn, bất lực » bỏ mọi sự, mọi người đi vào cõi chết, bởi có Ngài, tôi sẽ không cô đơn, bất lực ; có Ngài tôi sẽ không đi vào cõi chết chơi vơi, hư vô ; có Ngài là Tình Yêu, tôi sẽ không bị xua đuổi, trừng phạt, hủy diệt đời đời.
Vâng, tôi không thể được sinh ra bởi một Đấng toàn năng, mà lại cô đơn, bất lực đi vào cõi chết mà không có Ngài ; tôi không thể được sinh ra bởi Đấng là tình yêu, mà phải cô quạnh, lầm lũi đi vào vùng hủy diệt, bởi tình yêu luôn bất tử và sức mạnh của tình yêu là « sự sống lại và sự sống » miên trường, vĩnh cửu ; tôi cũng không thể bị bỏ rơi, quên lãng, hay bị trừng phạt dễ dàng bởi Đấng dựng nên tôi và yêu thương tôi, bởi tôi tin đời tôi cũng như đời của mọi người không thể là ngẫu nhiên vô nghiã trước một Thượng Đế có tên là Tình Yêu. Và như thế, lý trí tự nó đã cho phép tôi nhận ra cái vô lý của lo sợ, và phi lý của tuyệt vọng ở giờ chết, vì tin rằng Đấng tạo dựng nên tôi toàn năng và yêu thương sẽ không thể bỏ rơi thụ tạo thuộc về mình ở giờ vượt qua sự chết đi vào cõi sống đời đời, như đã cho nó được vượt qua cát bụi hư vô để làm người trong thế giới hôm nay. Lý trí còn khuyến khích tôi chẳng nên qúa lo sợ khi giờ chết đến, bởi chết không là đối thủ ngang cơ, ngang hàng, ngang tầm của Thượng Đế ; chết không phải đối thủ đáng ngại của Thượng Đế, nhưng chết nằm trong tay Thượng Đế, bởi chính Ngài sắp xếp và định đọat thời điểm gọi mỗi người về với Ngài, vì tất cả thuộc về Ngài, và sự sống, sự chết của tất cả đều nằm trong trái tim và bàn tay yêu thương, quan phòng của Ngài.
Tuy thế tôi đã chỉ yên lòng, vững dạ , khi nhận ra một chân lý cuối cùng rất quan trọng, đúng hơn là đòi hỏi mang tính định mệnh bảo đảm giờ mình sẽ chết, đó là thái độ và việc làm yêu thương trong cuộc sống.
Sở dĩ, tôi cần phải yêu thương để không phải run rẩy, sợ hãi ở giờ chết, bởi vào giờ sau cùng ấy, ngoài vốn liếng tình yêu đã suốt đời chắt chiu, gom góp , chẳng hành trang nào được xem là đáng giá ; ngoài sự nghiệp yêu thương đã tần tảo suốt đời xây dựng, không kho tàng nào « có cửa » được gọi tên, định giá ; ngoài yêu thương được tận tụy gieo vãi, vun trồng, tuyệt nhiên không một công trạng, thành qủa nào được ghi nhận ; ngoài tình yêu suốt đời cần mẫn đan dệt, không trang phục nào được xem là xứng đáng để được mời vào đại yến tiệc đời sau ; ngoài Tình Yêu như dấu hiệu duy nhất để được Thượng Đế nhận ra là con cái, không một đồng phục, huy hiệu, huân chương, lon lá nào được chứng thực ; ngoài Tình Yêu như tiếng nói còn lại duy nhất khi miệng lưỡi cứng đơ, thân xác lạnh lẽo khi linh hồn lià khỏi xác, không tuyên ngôn nẩy lửa, hoặc mỹ từ lộng lẫy, hùng hồn nào có khả năng vang vọng ; ngoài Tình Yêu là thông hành bắt buộc ở ngưỡng cửa vào vương quốc Thiên Đàng, không một bằng cấp, chứng chỉ, chứng minh thư, giấy giới thiệu nào có giá trị ; ngoài Tình Yêu là cán cân tội phúc, không đơn vị hay phương tiện đo lường nào được công nhận ở giờ phân xử công minh, bởi không lúc nào đức công minh của Thượng Đế được thể hiện trọn vẹn ở giờ chết, khi tất cả mọi người, bất luận nam nữ, sang hèn, giầu nghèo, đẹp xấu, giỏi giang, ngu si, qúy tộc, thứ dân, ông chủ, đầy tớ đều chung nhau một mẫu số Tình Yêu như quà tặng qúy giá và như bổn phận phải thực hiện.
Như quà tặng qúy giá, vì mỗi người đều nhận như nhau, bằng nhau tình yêu từ Thượng Đế ; như bổn phận phải thực hiện, vì khả năng yêu thương được ban đồng đều cho mọi nguời để yêu thương tha nhân trở thành đòi hỏi duy nhất của Thượng Đế ở mỗi người. Do đó, không ai được miễn trừ vinh dự, quyền lợi và nghiã vụ Yêu Thương, vì yêu thương làm con người nên giống Thượng Đế, để con người nhận ra Thượng Đế là Cha, và Thượng Đế nhận ra con người là con, đồng thời mọi người nhận ra nhau là anh em cùng được sinh ra, cùng được yêu thương, cùng được gọi về bởi một Cha để chung một nguồn Yêu Thương, chung một mái ấm hạnh phúc , chung một cung lòng yêu thương của Thượng Đế, mà từ đó mỗi người đã được sinh ra, vào đời.
Từ những ngày cuối đời của bạn tôi đến ngày đưa tiễn bạn về với đất, tôi đi từ cảm nhận sợ hãi trước cái chết đến niềm tin ở Thượng Đế, và nhận ra điều Ngài muốn tôi thực hiện trong cuộc sống để khi phải đến trước ngưỡng cửa của sự chết, như nhịp cầu cần thiết đi vào thế giới của sự sống mới, tôi sẽ không phải lo âu, sợ hãi, hoang mang, tuyệt vọng. Và tôi hiểu : điều tối cần thiết tôi phải làm ngay bây giờ là tập sống yêu thương mỗi ngày, tập ý thức lẽ sống yêu thương từng ngày, vì con người được sinh vào đời để yêu thương, như lòng mong ước của Thượng Đế, nên nếu kiên trì đồng hành mỗi ngày với yêu thương, cái chết có bất ngờ đến, bước đi tới cũng vẫn là những bước chân yêu thương trên hành trình cuộc sống. Và khi yêu thương có mặt, Thượng Đế sẽ không vắng bóng, bởi đâu có yêu thương, ở đấy có Thượng Đế, và khi có Thượng Đế, tôi tin sẽ chẳng có gì làm con người phải qúa khiếp sợ, kinh hãi ở giờ « tử biệt »
Sở dĩ không phải quá khiếp sợ, vì khi tập sống yêu thương hằng ngày, nghiã là sống yêu thương từng phút giây của hiện tại ; là tập thân thiện đón nhận hết mọi người tôi gặp gỡ mỗi ngày ; là quảng đại chia sẻ những gì tôi có từ tâm tình, thời gian đến khả năng, vật chất ; là bao dung bỏ qua, « cho chìm xuống » những bất công, mâu thuẫn, đối kháng, và tổn thương tinh thần cũng như vật chất người khác gây ra cho tôi; là thao thức, khắc khoải lo cho tương lai và hạnh phúc của mọi người, bắt đầu từ những người thân yêu tôi có trách nhiệm ; là hết tình, hết mình cộng tác với mọi người trong việc xây dựng một xã hội công bình, nhân ái ; là khiêm tốn dấn thân chung vai sát cánh với những người thiện chí trong công tác phục vụ những anh chị em bất hạnh, kém may mắn ; là hào sảng, hồn nhiên, chân thành và trung tín trong mọi tương quan để tâm hồn luôn trong sáng, lương tâm luôn ngay thẳng hầu trở thành sứ giả Bình An cho mọi người.
Vì thế, sống yêu thương ở giây phút hiện tại là tất cả những gì Thượng Đế mong đợi ở mỗi người, vì trước mặt Ngài, chỉ hiện tại là đáng kể, vì là thời gian duy nhất con người có trong tay để biểu hiện tình yêu đối với Ngài và với anh em đồng loại, vì quá khứ đã qua, và ngày mai chưa tới. Sống yêu thương ngay giây phút hiện tại là việc làm không chỉ bao gồm lòng trân qúy Tình Yêu như qùa tặng của Thượng Đế, nhiệt tình chu toàn bổn phận yêu thương của con người, mà còn là thái độ chân thành tạ tội, sám hối, ăn năn lầm lỗi. Sống yêu thương « ngay lúc này và ở đây » còn là bằng chứng của trái tim đầy thiện chí muốn nên tốt hơn, tử tế hơn, đạo hạnh hơn mỗi ngày như đòi hỏi của sự thánh thiện. Sống yêu thương hôm nay, với hết mọi người, kể cả với người « không dễ thương, nhưng dễ ghét », với người « biết hết mọi sự trừ biết điều », với người « không quen hy sinh vì người khác, mà chỉ sành sỏi hy sinh người khác vì mình », tôi sẽ thấm thiá giá trị cứu chuộc, ý nghiã cứu rỗi, sức mạnh cứu độ của bài học tình yêu mà Đức Giêsu đã dậy nhân loại :
« Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi ? … Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện » (Mt 5,44-46.48).
Vâng, nhờ được ở bên cạnh những ngày cuối đời, và chứng kiến sự ra đi của người bạn rất trân qúy, tôi đã hiểu ra : chỉ có tình yêu được sống mỗi ngày, và hiện thực từng ngày, đặc biệt tình yêu bao dung, tha thứ, tôi mới tìm lại được Bình An trong chính Đấng đã cho tôi vào đời và sẽ lấy tôi ra khỏi đời theo chương trình yêu thương của Ngài, mà chương trình yêu thương thì bao giờ cũng mang lại kết qủa an bình, hạnh phúc.
Với niềm tín thác ở Thượng Đế là Tình Yêu bất diệt và trung tín, cùng với nỗ lực liên lỷ yêu thương từng ngày, chắc chắn nỗi sợ chết trong tôi sẽ dần dà nguôi ngoai, phai nhạt, vì được thay thế bằng niềm hy vọng được bảo chứng, khi tôi xác tín và năng thầm nhủ: « Sống hay chết, mình vẫn cố yêu thương ».
Jorathe Nắng Tím