Tìm kiếm Blog này

Thứ Bảy, 23 tháng 3, 2019

PHÓ THÁC!

https://www.youtube.com/watch?v=lAGBsHINLjk
   Đặt hy vọng, kỳ vọng hay phó thác, tín thác, ký thác đều chung một động thái, chủ đích, và ý nghĩa là trao gửi chính mình, đời mình, tương lai, hạnh phúc của mình trong bàn tay yêu thương có sức thực hiện điều mà tự mình không thực hiện được của người mình yêu mến và tin tưởng.
   Như thế, để có tinh thần phó thác, chúng ta phải đáp ứng ít nhất hai đòi hỏi:

   1/ Phải yêu mến, tin tưởng, trung thành : 
    Không yêu sẽ không tin, nhưng đang yêu mà bỗng dưng vì một thất tín trầm trọng, hoặc lừa dối nào đó dẫn đến mất niềm tin, thì tình yêu cũng đành phải “cao bay xa chạy”, mà hành vi phó thác đòi cả hai điều kiện : Yêu và Tin, bởi ta không thể đặt hy vọng, trao gửi hoài bão trong tay người mà ta không yêu, không tin.
Cũng có trường hợp ta chỉ yêu, nhưng không tin, khi đối tượng không đủ khả năng bảo đảm lòng tin của ta, thí dụ đối tượng ta có bổn phận yêu thương lại là người quá trống trải, nhẹ dạ, không kín tiếng kín miệng, và có thể mang lại nguy hiểm cho ta vì sự ngây ngô, khờ khạo đáng thương của họ.
   Yêu mến, tin tưởng tuy cần thiết nhưng chưa đủ, vì còn cần lòng trung thành, bởi không trung thành, ta sẽ phó thác đời ta cùng một lúc trong tay nhiều người, theo kiểu “bắt cá hai tay”, và như thế, phó thác sẽ không còn ý nghĩa và giá trị đích thực và trọn vẹn của nó. 
   Như thế, phó thác là chọn lựa ở mức độ cao của tình cảm, vì đòi phải yêu, tin và trung tín. Mức độ phó thác ấy càng cao, khi tình yêu, niềm tin tưởng, lòng trung thành nơi người ta phó thác càng sâu thẳm, vững chắc. Về phía người ta tìm đến phó thác tất nhiên cũng phải là người yêu thương và sẵn sàng cưu mang, giúp đỡ ta. 

2/ Phải chân nhận sự bất lực của ta và khả năng của người ta tìm đến phó thác :
Ký thác cho ai một việc là công nhận người ấy có khả năng, có lực để giải quyết, đảm đương. Nhưng xa hơn và quan trọng hơn công việc, khi phó thác chính đời mình cho một người thì người ấy chắc chắn sẽ phải có quyền, có tài, có lực hơn ta rất nhiều. Nếu không sẽ chẳng còn là phó thác trong nghĩa “trao thân gửi phận”, nhưng có nguy cơ trở thành “giao trứng cho ác”, và tự chuốc lấy tang thương, thất bại.
   Như thế, để phó thác cuộc đời cho ai, ta phải nhận mình ở vào tình trạng bất lực khi không kiểm soát, định đoạt được tất cả những gì đang hoặc sẽ xẩy đến, đồng thời chân nhận giá trị, khả năng, thế lực của người ta tìm đến phó thác.
Cụ thể khi phó thác ở Thiên Chúa, chúng ta cần xác tín trước hết một điều rất quan trọng, đó là Thiên Chúa yêu thương ta trước khi ta biết và yêu mến Ngài ; cứu chuộc ta trước khi ta yếu đuối bỏ Ngài ; gìn giữ ta cả khi ta đang điên cuồng, ngạo nghễ lên án Ngài chỉ vì Ngài là Tình Yêu, mà đã là Tình Yêu, Thiên Chúa chỉ có thể yêu, mà không thể ganh ghét, thù hận, bạo hành, báo oán, giận dữ, ác độc đối với bất cứ ai hay tạo vật nào của Ngài, nếu không, Ngài sẽ tự phủ nhận chính mình là Thiên Chúa.
   Hãy nghĩ đến hạnh phúc của người con được Thiên Chúa là “Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất muôn vật hữu hình và vô hình” yêu thương. Được người đời có quyền cao chức trọng yêu thương đã là hạnh phúc lớn, nay có Thiên Chúa toàn năng yêu thương, hỏi còn vinh dự, hạnh phúc nào lớn hơn ? 
   Và hạnh phúc nắm bắt ngay được trong Thiên Chúa toàn năng đang yêu thương con người chính là con người không còn phải lo lắng, tân toan trên giòng đời xem ra vô thường, vì được Thiên Chúa ban cho hạnh phúc được phó thác trọn vẹn cuộc đời và tất cả mọi người, mọi việc, mọi biến cố liên quan trong tay Ngài.
   Trong Tin Mừng, Đức Giêsu đã quả quyết hạnh phúc của những tâm hồn biết phó thác : 
   “Thầy bảo cho anh em biết : đừng lo cho mạng sống : lấy gì mà ăn ; cũng đừng lo cho thân thể : lấy gì mà mặc... Hãy nhìn xem chim trời : chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho ; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao ? ... Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì ? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng... : chúng không làm lụng, không kéo sợi ; thế mà ngay cả vua Sa lô môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy” (Mt 6, 25-29). 
   Quả thực, phó thác như chim trời, hay cánh hoa đồng nội, con người sẽ chẳng còn bất hạnh vì quá khứ cắn rứt, dằn vặt, vì hiện tại bươn trải, nhọc nhằn, vì tương lai mịt mờ đe dọa, nhưng luôn bình an vì đã phó thác trong tay Chúa là Cha nhân hậu và bao dung quá khứ đầy bất toàn ; đã phó thác trong tay Chúa là Cha toàn năng hiện tại nhiều sóng gió, thử thách ; đã phó thác trong tay Chúa là Cha quan phòng cả giòng đời tương lai mịt mờ. Và như con thơ trong tay mẹ hiền, suốt đời sẽ chỉ biết yêu mẹ và nắm chặt tay mẹ mọi lúc, mọi nơi. 
   Nhiều người khi nghe hai chữ phó thác thì nhếch môi cười nhạt, trong ý nghĩ : “phó thác mà chết à”, bởi theo họ, chẳng có Thiên Chúa nào rảnh rang đến độ săn sóc cái đám lợi dụng chiêu bài “phó thác” để ươn lười, phè phỡn, không phấn đấu, làm việc. Có người liều mạng cắt nghĩa : như chim “không gieo, không gặt” và như hoa “không làm lụng, không kéo sợi”, ta đây vì phó thác nên cũng chẳng cần phải “chân lấm tay bùn”, làm ăn vất vả. Cắt nghĩa kiểu này thì nguy to cho cả họ, vì công việc của chim trời không là gieo, gặt, cũng như nhiệm vụ của bông hoa không là dệt tơ, kéo sợi. Nhưng đó chính là công việc của con người, mà Đức Giêsu dùng như hình ảnh để làm nổi bật tinh thần phó thác ở Thiên Chúa quan phòng.
   Người viết trộm nghĩ : nếu có ai đó ủng hộ quan điểm sai lệch trên, thì quả thực oan uổng cho các thánh trên trời và người lành dưới thế quá, bởi các vị đều là những người luôn phó thác đời mình trong tay Chúa, đồng thời say mê làm việc phục vụ mọi người.
Do đó, ta cần lưu ý thành kiến rất sai lệch và nguy hiểm ở một số đông đáng kế, đó là đồng hoá người lười biếng với người phó thác, và ngây ngô cho rằng: người sống phó thác là người chỉ nằm phó thác, “há miệng chờ sung rụng”, mà không thao thức, khắc khoải, ước mơ, dấn thân hoạt động, hay tận lực phấn đấu, tận tụy hy sinh thực hiện hoài bão.
   Khi Đức Giêsu dùng hình ảnh chim trời phó thác, Ngài chỉ cho đám đông đi theo Ngài cùng Ngài dõi theo những cánh chim đang bay trong trời rộng để làm vui thế giới, nhìn xem bầy chim sẻ đang ríu rít, líu lo nhẩy từ cành này sang cành khác để làm rộn ràng cuộc sống, cảm kích trước những chim mẹ đang chăm chú, chăm chỉ nhặt từng mụn bánh, từng hạt đậu nhỏ, khô lép rơi vãi trên sân đem về nuôi con. 
   Đức Giêsu đã không chỉ những con chim nằm kềnh, chổng gọng, phơi xác lười biếng, những con chim không hót líu lo, không bay nhảy, không chăm chỉ kiếm ăn, nhưng đàn chim được diễm phúc chọn làm hình ảnh phó thác hôm ấy gồm toàn những cánh chim vui sống, đang hăng say làm việc của mình, đang cố gắng chu toàn sứ mệnh của mình, đang tận tâm, tận lực lo cho đồng loại của mình.
Như những cánh chim sẻ, những bông hoa đồng nội cùng diễm phúc được chọn làm hình ảnh của Phó Thác hôm ấy cũng đang rung rinh, lả lơi tỏa hương thơm, khoe sắc đẹp trước gió để làm đẹp thế giới, làm phấn khởi lòng người như sứ mệnh của chúng khi được tạo dựng.
   Những bông hồng đỏ thắm biểu hiện tình yêu tha thiết, nồng nàn, những bông huệ trắng vươn cao như khát vọng trinh khiết, những nàng hướng dương, cúc vàng, trinh nữ, mimosa vừa rực rỡ vừa đằm thắm, dịu dàng cho hồn nhân thế vừa phơi phới, rạo rực, vừa trầm lắng, lâng lâng. Và cả đàn chim trời, cả rừng hoa muôn sắc hôm ấy đã tràn ngập hạnh phúc trong tình yêu của Thiên Chúa quan phòng.
Từ hình ảnh chim trời, hoa đồng nội, chúng ta nhận ra điều Thiên Chúa muốn ở những tâm hồn phó thác nơi Ngài.
   Phó thác không là “phó mặc” vô trách nhiệm, không là “thoái thác” hèn nhát. Trái lại, phó thác là luôn làm việc trong hiên tại như Thiên Chúa Ba Ngôi luôn làm việc ; luôn cố gắng chu toàn trong chính giây phút hiện tại trách nhiệm và sứ vụ được trao phó ; luôn chăm chỉ, tận tụy ngay “ở đây và lúc này” thực hiện chương trình còn dang dở, phải hoàn thành ; luôn thao thức và chăm chú lắng nghe lời thì thầm của Chúa Thánh Thần trong từng nhịp thở của trái tim ; luôn nhậy bén nhận ra những dấu chỉ của thời đại đế không bỏ lỡ cơ hội của ơn Cứu Độ ; nhất là luôn giữ ý thức và ý chí trên tuyến đường Thương Xót của Đức Giêsu vì đây mới chính là nền tảng của phó thác, nguồn suối của phó thác, sức mạnh của phó thác, bệ phóng của phó thác, và lẽ sống của phó thác.
Tại sao vậy ?
   Thưa vì con người chỉ có được diễm phúc phó thác quá khứ tội lỗi của đời mình trong tay Thiên Chúa vì Thiên Chúa giàu lòng xót thương. Giả như Thiên Chúa không giàu lòng xót thương, thử hỏi con người có cửa nào để được xoá hết lỗi lầm, tội lụy ? Do đó, không có lòng thương xót, thì chẳng có cơ may cho tội nhân được phó thác hết lỗi lầm đã vấp phạm.
   Nếu Thiên Chúa không là Tình Yêu thương xót, thì ai sẽ đủ sức che khỏi mắt Ngài những xúc phạm đáng luận phạt của mọi người và mỗi người đang phơi bầy trước mặt Ngài ? Và tội nhân là hết mọi người chúng ta chỉ có nước lẩn trốn khi Ngài nghiêm nghị gọi tên, mà chẳng bao giờ dám mơ cảnh con thơ phó thác ngủ yên trong tay mẹ hiền là Thiên Chúa. 
   Nếu Thiên Chúa không bao dung, thương xót, thì những người tội lỗi làm gì có ngày mai mà cần phải phó thác, vì 
tất cả mọi con đường hạnh phúc tương lai đều sẽ bị đóng lại.
Vì thế, phó thác chỉ thực sự có mặt trong tâm hồn khi tâm hồn nhận ra Thiên Chúa là Tình Yêu thương xót. Thiếu lòng thương xót của Thiên Chúa, phó thác sẽ vô ích, vô nghĩa, vì phó thác ở ai là tin, yêu, trung thành với người ấy, với một điều kiện tiên quyết : người ấy phải là người yêu thương ta và có khả năng cứu giúp, che chở, bênh đỡ, mang lại hạnh phúc cho ta. Vậy nếu Thiên Chúa, Đấng ta phó thác tất cả không yêu thương ta, thì ta phó thác cho Ngài làm gì, bởi Ngài sẽ chẳng đoái hoài, cũng chẳng quan tâm, chạnh lòng trước khốn khổ, quẫn bách, cơ cùng của đời ta. 
   Tóm lại, phó thác luôn hướng đến niềm hy vọng và bình an, nên chỉ trong lòng thương xót, phó thác mới sống được ; chỉ trên đất của lòng thương xót, phó thác mới nẩy mầm và lớn lên ; chỉ với nắng gió, mưa sương của lòng thương xót, cây rừng mới xanh lá và vườn kia mới cho hoa thơm, trái ngọt, bởi chỉ có lòng thương xót của Thiên Chúa dủ thương dân Ngài thì dân Ngài mới được niềm Hy Vọng, ơn Bình An, là Hanh Phúc con người hằng khát khao, mong đợi. 
   Mùa chay là mùa Thiên Chúa tỏ lòng thương xót dân Ngài, cũng chính là cơ hội dân Ngài đáp trả tình Ngài xót thương bằng phó thác linh hồn, thân xác, mọi sự, mọi việc, niềm vui, nỗi buồn, may mắn, trắc trở, thất bại, thành công, cả việc tốt lành và tội lỗi, cả người thân và kẻ bách hại, làm khổ, cả quá khứ, hiện tại, tương lai trong tay Thiên Chúa là Đấng toàn năng, giauf lòng thương xót luôn biết con cái cần gì và quan phòng, lo liệu tất cả.
Jorathe Nắng Tím


Đôi Mắt

https://www.youtube.com/watch?v=XKQUTlTdSzU
Sức quyến rũ của một người tập trung ở đôi mắt. Mắt thu hút người đối diện, mắt nói nhiều hơn miệng. Mắt tỏ tình, gợi cảm, mắt nắm bắt, lột trần thực tại. Sở dĩ mắt làm được nhiều chuyện, vì mắt nhìn được tất cả. Không có mắt, thực tại bên ngoài khó được nội tâm thu nhận. Thiếu mắt, cuộc sống mất đi nhiều cơ hội tương giao.
Nhưng mắt không đều đặn cho mọi người, mắt không đồng bộ cho mọi khuôn mặt, mắt không cùng độ nhạy bén cho tất cả, nên mới phải giải phẫu mắt, cắt mí mắt, đeo kiếng, đặt tròng, nhỏ thuốc làm mắt sáng long lanh, tô vẽ cho mắt thêm huyền ảo… Vì không cùng kích thước, chất lượng nên mắt mỗi người nhìn vũ trụ, con người khác nhau đưa đến nhận định, ý kiến, nhận thức khác nhau. Chính những khác nhau của đôi mắt và cách nhìn đã phát sinh những khó khăn, phức tạp, đối kháng trong đời sống xã hội vì những thành kiến, thiên kiến, loạn kiến, cận kiến, viễn kiến do những đôi mắt cận thị, viễn thị, loạn thị hay vật thị, lợi thị, linh thị, cực đoan thị, ngoan cố thị, phi nhân thị…


Tin Mừng mùa Phục Sinh tường thuật nhiều gặp gỡ giữa Đức Kitô Phục Sinh và các môn đệ của Ngài, từ lần gặp Mađalêna và các bà đạo đức buổi sáng sớm phục sinh gần cửa mộ (Mc 15,1-8) đến bước đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmau (Lc 24,13-35), rồi với mười một tông đồ (Lc 24,36-49), và lần gặp được coi là sau cùng trên bờ biển Tibêriát (Ga 21,1-22). Trong các cuộc gặp gỡ, Đức Kitô đã hành xử như một người sống thực: cũng ăn nói, đi đứng, cư xử như ngày xưa, trước khi chịu chết, nhưng có điều lạ là tất cả đã không nhận ra Ngài. Đôi mắt các ông đã không còn nhìn thấy Ngài dù Ngài vẫn là Giêsu, Thầy của các ông. Đôi mắt các ông không nhận ra Ngài, dù Ngài vẫn cùng giọng nói, cùng dáng đi, cùng nếp sinh hoạt quen thuộc. Mađalêna đã tưởng Ngài là người làm vườn, các môn đệ gọi Ngài là ma, hai môn đệ trên đường Emmau nghĩ Ngài là người đi đường tình cờ gặp, không quen biết.
Quả thực, đôi mắt các vị đã không nhìn ra Đức Kitô từ cõi chết sống lại, bởi thân xác sống lại của Ngài đã biến đổi và không còn là thân xác trước đó nữa như Ngài đã nói với Mađalêna: “Con đừng giữ Thầy như vậy, vì Thầy chưa lên cùng Cha Thầy” (Ga 20,17). Tuy trở về đời sống như con người sống thực, nhưng thân xác phục sinh của Ngài đã biến thành thân xác siêu nhiên như ngày nào Ngài đã biến hình sáng láng trên núi trước mặt ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan (Mt 17,1-8). Đó là lý do đã khiến đôi mắt nhân loại của các môn đệ không nhìn ra Ngài.


Như thế, vinh quang của Chúa Cha đã bao phủ thân xác phục sinh của Đức Kitô và mắt trần không thể nhìn ra Ngài. Các môn đệ tuy là những người thân cận, ở sát cạnh Đức Kitô nhiều năm cũng đã không nhận ra, dù Ngài đứng giữa các ông, nói chuyện với các ông, ăn uống với các ông, nhắc nhớ kỷ niệm đã có với các ông.

Nếu chính các môn đệ của Ngài không nhận ra Ngài, hỏi ai sẽ có thể nhận ra Ngài?

1.   Để nhận ra Đức Kitô Phục Sinh, Đấng đã chết để đem lại “trời mới, đất mới, thế giới mới, nhân loại mới”, đôi mắt phải được trang bị bằng cái nhìn “Tạo Dựng” ở đó “mọi sự, mọi loài đã được Thiên Chúa dựng nên và Ngài thấy tất cả đều tốt đẹp” (1Tm 4,4). Nhìn mọi sự như tạo vật tốt đẹp từ tay Thiên Chúa, nhìn mọi người với hình ảnh Thiên Chúa, đôi mắt sẽ “biết” nhìn tôn trọng, nhìn xây dựng, nhìn tích cực, nhìn bảo vệ, nhìn gìn giữ. Thế giới và con người sẽ được nhìn bằng đôi mắt tạ ơn, bằng ánh mắt cảm mến trước công trình tạo dựng tuyệt vời của Thiên Chúa là Cha. Trong tâm tình tri ân ấy, đôi mắt sẽ nhận ra Đức Kitô sống lại và tình yêu của Ngài trong tất cả mọi tạo vật, nhất là trong những người đương thời cùng sống.

2.   Để nhận ra Đức Kitô Phục Sinh, Đấng đã chết để đem lại Bình An cho mọi tâm hồn, đôi mắt phải mang cặp kiếng “Cứu Độ”, ở đó Thiên Chúa không bỏ sót, lãng quên, chối từ, xua đuổi một ai, nhưng “chậm bất bình và rất nhân hậu, khoan dung” để tất cả đều được cứu độ. Cặp kiếng cứu độ sẽ biết nhìn như Đức Kitô: không “bới lá tìm sâu”, không “bới lông tìm vết”, không kiếm dằm trong mắt anh em, không soi mói, kết án, không bóc trần, phanh phui, không theo dõi, tố giác. Cái nhìn của Đức Kitô biết nhắm lại làm thinh trước yếu đuối, biết cúi sâu khẽ khàng trước bẽ bàng, tội lụy, biết nhỏ lệ trước mất mát, thiệt thòi. Đó là đôi mắt của tình yêu thông cảm, nâng đỡ, đôi mắt của tình yêu an ủi, chữa lành. Với cặp kiếng Cứu Độ, mắt sẽ nhìn thấy trái tim nhạy cảm, hay chạnh lòng trước đau khổ của Đức Kitô, sẽ nhận ra độ cao độ dày của khối tình Thiên Chúa bao la và nhiệm lạ chỉ đợi chờ được mở lòng thứ tha.
Không nhận ra Đức Kitô vì mắt đã không được trang bị tình yêu của Ngài khi hận thù còn làm mắt “long lên sòng sọc”, ghen ghét còn làm “ngứa mắt”, cạnh tranh bất chính còn làm mắt xốn xang. Không nhìn ra Đức Kitô phục sinh khi mắt còn rực lửa dục vọng, còn sưng vù hay híp lại vì tham lam, ích kỷ. Chỉ với cặp kiếng Cứu Độ, đôi mắt trần tục mới nhìn ra Đức Kitô đã chết vì tình yêu và sống lại cho một thế giới mới, con người mới của tình yêu.

3.    Để nhìn ra Đức Kitô phục sinh, mắt phải mang lấy tầm nhìn “Hy Vọng Đổi Mới” của Chúa Thánh Thần. Sở dĩ mắt không nhìn được xa, không thấy được rộng, không sao mở lớn là vì mắt tự giam mình, tự đóng khung trong một giới hạn nhỏ bé vì ích kỷ, chật hẹp vì ghen tương, thiển cận vì thiếu bác ái, từ tâm và nhất là đui chột vì thiếu vắng niềm hy vọng. Mắt sẽ nổi cườm mờ mịt khi mắt không hy vọng vào ơn trở về của chính mình. Mắt sẽ kéo màng tăm tối khi không hy vọng vào khả năng đổi mới của anh em. Mắt sẽ khô võng mạc làm mù loà khi không hy vọng vào ngày mai sẽ mới hơn, tốt đẹp hơn của cộng đồng nhân loại. Mắt sẽ cay xè không còn thấy rõ khi mắt thất vọng, đào ngũ trước mời gọi dấn thân cho tương lai trước mặt. Không mang tầm nhìn Hy Vọng của Thánh Thần, Đấng sẽ đổi mới bộ mặt thế giới và đổi mới tâm hồn con người, đôi mắt trần tục sẽ chỉ nhìn những gì dưới chân để thoả mãn dục vọng nhất thời và đam mê tạm bợ.
Đức Kitô Phục Sinh đã không được nhận ra, vì mắt con người không mang Hy Vọng của Thánh Thần. Ở đôi mắt thất vọng, người ta chỉ thấy tiêu cực, bất lực và trong đôi mắt tuyệt vọng, uy lực của tử thần hiện lên.
Mang tầm nhìn Hy Vọng Đổi Mới của Chúa Thánh Thần để nhận ra “Thánh Thần chân lý ở trong chúng con và ở với chúng con” (Ga 14,17), để nhận ra đời mình luôn được an ủi (Ga 14,16), để thấy đời mình được hướng dẫn, dạy dỗ bởi Thánh Thần (Ga 16,13). Tầm nhìn Hy Vọng sẽ xoá tan mây mù thất vọng, phá tan màn sương vô vọng, diệt tan bóng tối tuyệt vọng phủ che đôi mắt. Tầm nhìn Hy Vọng trong Thánh Thần sẽ như lưỡi lửa của Thiên Chúa đậu xuống trên đầu, ban dư đầy ơn thánh, làm ngạc nhiên, sửng sốt mọi người (Cv 2,1-13).
Đức Kitô đã sống lại. Ngài cũng đến gặp gỡ mỗi người, như đã đi gặp các tông đồ. Nếu mắt con người đã không cho các ông nhận ra Ngài, thì đôi mắt nhân loại nơi mỗi người cũng khó nhìn thấy Ngài. Nhưng nếu không gặp được Ngài, không nhìn thấy Ngài, không nhận ra Ngài trong ngày Phục Sinh thì ngày mai của đời Kitô hữu sẽ ra sao? Không lẽ sẽ là chuỗi ngày dài không có Ngài? Không lẽ sẽ là cuộc đời buồn tênh không tình Ngài? Không lẽ sẽ là đường dài vô vọng không bóng Ngài đồng hành?
Lạy Đức Kitô đã chết và đã sống lại, xin cho chúng con đôi mắt Đức tin, Đức Mến, Đức Cậy để nhìn ra Chúa đang ở bên, để nhận ra Chúa đang đến gần, để phục vụ Chúa đang ở trong anh em.

Sợ Ma

https://www.youtube.com/watch?v=_enG0nF5JLU
Không phải ai cũng thấy ma, nhưng phần đông đều sợ ma. Không thấy mà sợ, sợ vì không thấy. Sợ ma vì thuở nhỏ được nghe những chuyện ma hãi hùng, kinh dị. Sợ ma vì hình dạng kỳ quái của ma được trí tưởng tượng phong phú thêu dệt, nhưng sợ ma cũng vì ma làm sợ như nhiều người bị ma nhập, ma hớp hồn, ma đeo đuổi, ma ám ảnh, ma chọc ghẹo.
Người ta sợ ma, nhưng không rõ ma từ đâu đến, bản chất ma là gì, công việc của ma ra sao. Vì không biết rõ nên ý tưởng về ma rất mông lung, mơ hồ và vì mơ hồ, người ta dễ dàng cho là ma tất cả những hiện tượng khó giải thích trong thiên nhiên; vì mông lung nên cả người chết cũng bị đẩy xuống làm ma: đám ma, thây ma, bãi tha ma.
Câu chuyện sợ ma vì thế có từ xa xưa, khi thế giới có người chết. Đang sống thì gần gũi thắm thiết, quây quần vui vẻ, nhưng chết là lập tức biến thành ma và người sống sợ hãi, tránh xa: không dám một mình bên thây ma, không dám một mình trong nhà ma, không dám một mình giữa bãi tha ma. Người chết khi vừa tắt thở là lập tức được chuyển hộ khẩu sang thế giới ma huyền bí và từ nay sự có mặt của họ trong đời thường, giữa người sống được coi là hiện tượng không bình thường như trường hợp hiện về của một số người đã chết.
Tin Mừng trong Tuần Thánh cũng kể chuyện sợ ma vào buổi sáng sớm khi các bà Mađalêna, Salômê, Maria mẹ ông Giacôbê ra thăm mộ Đức Kitô và “thấy một thanh niên, ngồi bên phải, mặc áo trắng” (Mc 16,1-8). Các bà sợ hú vía vì tưởng là ma và “hốt hoảng tháo chạy”. Đàn bà sợ ma, hay ít ra cũng sợ ma hơn đàn ông, nên khi thấy mộ mở toang, ghé mắt nhìn vào thì thấy một chàng trai mặc áo trắng ngồi ngay chỗ đã liệm xác Thầy và tỉnh bơ mở lời: “Các chị tìm Chúa Giêsu chịu đóng đinh hả? Ngài đã sống lại rồi, không còn ở đây nữa” (Mc 16,6), các bà sợ rụng rời chân tay và chạy về báo cho Phêrô và các tông đồ “Thầy đã sống lại” (Lc 24,9-10). Biết phụ nữ vốn đồng bóng, nhẹ dạ, sợ ma, nên các ông đã không tin và cho là chuyện bày đặt, hoang tưởng.
Thực vậy, các tông đồ không vội tin và biến cố sống lại của Đức Kitô đã bị xếp vào chuyện giả tưởng, chuyện ma nhảm nhí, bằng chứng là nhiều ngày sau đó, các ông vẫn “bán tín bán nghi” những điều các bà kể. Tôma không tin đã đành (Ga 21,25), các ông khác cũng không hoàn toàn tin, vì với các ông sự có mặt của Đức Kitô trong cõi đời thường sau khi Ngài đã thực sự chết và chôn trong mồ chỉ là hiện tượng hiện về của người chết, chứ không là sự kiện sống lại thật. Bằng chứng các ông đã gọi Ngài là ma, khi Ngài hiện ra với họ (Lc 24,37). Để giúp các ông ra khỏi ám ảnh sợ ma và nhận ra “Ngài đã sống lại thật từ cõi chết”, Đức Kitô đã nhắc các ông nhớ lại lời Ngài đã căn dặn trước khi đi chịu chết: “Thầy sẽ sống lại” và giúp các ông phân biệt “bóng ma, con ma” với thân xác sống lại từ cõi chết của Ngài.



1.   Ngài đã trở về cõi sống như con người sống động. Ma thường lởn vởn trong đời thường với bóng với hình, dưới dạng này dáng kia, nhưng không hiện diện, sinh hoạt như con người cụ thể, đang sống. Ma cũng chỉ thấp thoáng ẩn hiện, chứ không có mặt như con người bằng xương bằng thịt, ăn nói, chuyện trò, chia sẻ, cảm thông.
Không là ma hiện hình, không như người chết hiện về, Đức Kitô Phục Sinh mang thân xác sống động của con người sống: “Chúng con hãy nhìn xem chân tay Thầy nè. Chính Thầy đây. Hãy rờ chân tay Thầy mà xem, vì ma đâu có xương thịt như chúng con thấy Thầy có” (Lc 24,39). Chúa đã trấn an các tông đồ đang nghi nan, sợ hãi tưởng Ngài là ma, khi Ngài đến với các ông sau khi sống lại. Chính Ngài đã giúp các ông phân biệt ma với người, khi chỉ cho các ông nguyên tắc: ma thì không có xương thịt sống động như người sống.
Sống động như con người đang sống, Đức Kitô Phục Sinh đã nói tiếng nói của người sống, ăn uống như người sống, dùng thức ăn của người sống (Lc 24,42-43), đi lại như người sống, cư xử như người sống, lý luận như người sống, trách móc như người sống (Mc 16,14). Và câu chuyện đường Emmau giữa Ngài với hai môn đệ đã chứng minh điều này (Lc 24,13-35).
Là người sống, không là ma hiện hình, Đức Kitô Phục Sinh, không những chỉ suy nghĩ, lý luận, hành động như người sống, mà còn yêu thương, diễn đạt tình cảm của người sống, như người sống. Trước khi trao quyền Giáo Hoàng cho Phêrô, Ngài âu yếm hỏi ông nhiều lần: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” (Ga 21,15-17).


Ma không sinh hoạt được như người sống, vì ma không có xương thịt như người để có mặt cụ thể trong không gian, thời gian cố định. Trái lại, khi phục sinh từ cõi chết, Đức Kitô sống đời sống người thật trong thân xác có xương có thịt của con người, nếu có khác là khác thân xác được sống lại từ cõi chết. Sự có mặt của Ngài sau khi sống lại với các tông đồ và nhiều người là sự có mặt của một con người sống, sống động, chứ không chỉ động như bóng ma động đậy trước gió, như dáng ma di động trên ngọn cây, như hình ma động nhẹ trên mái nhà. Chính sự sống “sống động” trong thân xác sống lại thật của Đức Kitô đã cho các tông đồ và nhiều người nhận ra Ngài đã sống lại thật như lời Ngài phán hứa.

2.   Hứa sẽ sống lại và đã sống lại như lời đã hứa, đó là điểm quan trọng trong biến cố sống lại của Đức Kitô. Ma không hứa trước với ai điều gì. Ma bất ngờ hiện hình làm người sợ, ma bất ngờ trêu chọc làm hoảng hồn, hú vía. Khác với ma, Đức Kitô đã nói trước việc Ngài sẽ sống lại. Ngài chủ động chứ không thụ động trong cái chết. Ngài biết trước, chuẩn bị trước tâm hồn các tông đồ để các ông không xao xuyến, thất vọng khi dặn dò: Thầy sẽ trở lại với chúng con (Ga 14,18) vì Thầy sẽ bị giết, nhưng sau ba ngày Thầy sẽ sống lại (Lc 18,33; Mc 9,30). Nói trước việc gì và sự việc xảy ra như đã nói là bảo chứng của người có quyền, làm chứng người ấy làm chủ vận mệnh, hoàn cảnh, thời thế. Người nói trước là người nắm vững tương lai và người nắm trước tương lai là người có quyền trên lịch sử. Người có quyền và làm chủ lịch sử, vận mệnh là ai, nếu không phải Thiên Chúa, vì con người, không ai có thể nắm chắc trong tay vận mệnh đời mình và tương lai của “lịch sử”. Đức Kitô đã quả quyết: sau ba ngày Ngài sẽ sống lại, không chỉ với các tông đồ mà với mọi người. Cũng chính vì lời quả quyết quá sắt thép, chắc nịch mà các ông thượng tế, ký lục, luật sĩ mới bực mình vì khó nghe, cho là phạm thượng, vì đúng như họ nghĩ: chỉ có Thiên Chúa mới dám bạo miệng nói như Ngài: “sau ba ngày, Ta sẽ sống lại”.


Trên đường Emmau, hai môn đệ vẫn chưa hoàn hồn sau cái chết của Thầy, nên còn ủ dột, sợ hãi. Họ đi bên nhau trong lặng lẽ thất vọng và không nhớ gì đến lời Thầy mình căn dặn. Phải chờ cho đến khi Đức Kitô nhắc họ nhớ lại lời hứa sẽ sống lại sau ba ngày từ cõi chết và khi Ngài bẻ bánh, họ mới nhận ra Ngài là người đã đồng hành với họ (Lc 24,13-34).
Như thế, cái chết nơi Đức Kitô nằm sẵn trong chương trình, kế hoạch cứu độ của Ngài và là cột mốc giữa sự sống và sự sống lại. Đức Kitô, tuy đã chết như con người, nhưng cái chết không có quyền trên Ngài, không có quyền biến Ngài thành thây ma và sự có mặt của Ngài sau khi sống lại không được coi như hiện tượng người chết hiện về. Cái chết chỉ đóng vai trò trung chuyển ngắn hạn, tạm thời mà không có quyền trên Ngài. Cái chết chỉ là một bước nối sự sống và sự sống lại nơi Ngài. Ngài đã sống lại như người sống, vì Ngài là sự sống. Ở Ngài, sự chết phải đầu hàng và hoàn toàn bị tiêu diệt.



3. Đức Kitô trở lại sự sống như người chiến thắng. Ma hay người chết hiện về đều lệ thuộc những điều kiện và quy luật của thế giới vô hình và thế giới hữu hình; có nghĩa là không được hội nhập vào thế giới người sống một khi đã rời bỏ thế giới sống, hữu hình. Trái lại, Đức Kitô hoàn toàn tự do hội nhập vào thế giới sống động của con người sống, vì Ngài trở lại đời sống như một người chiến thắng: chiến thắng thần chết, chiến thắng địa ngục, chiến thắng tội lỗi. Trở về trong cương vị người chiến thắng, Đức Kitô đã tiếp tục công trình cứu độ của Ngài bằng sai các tông đồ “đi làm chứng cho Ngài ở Giêrusalem, trong khắp các xứ Giuđêa, Samaria và cho đến tận cùng thế giới” (Cv 1,8). Là người chiến thắng, Ngài đến thăm và quy tụ tất cả những ai đã theo Ngài và trao cho họ sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho muôn dân cho đến ngày tận thế (Mc 16,15). Là người chiến thắng, Đức Kitô đã không để gián đoạn sứ mệnh cứu thế qua việc trao cho các tông đồ quyền nhân danh Ngài mà rao giảng, cai trị, thánh hoá muôn dân. Là người chiến thắng, Ngài đã làm nhiều phép lạ trước mặt những người được Ngài hiện ra. Chỉ có người chiến thắng mới thực hiện đến cùng kế hoạch và trao sứ mạng tiếp nối kế hoạch của mình cho người khác.

4.    Đức Kitô Phục Sinh là Thiên Chúa. Sự kiện tự mình sống lại từ cõi chết đã minh chứng điều này. Con người không thể tự mình sống lại. Ngay cả người chết hiện về cũng chỉ hiện về khi có phép của Thiên Chúa. Ông phú hộ trong Tin Mừng xin hiện về báo cho năm anh em ông đừng bắt chước ông sống keo kiệt, vô tâm với người nghèo, nhưng ông đã không được Thiên Chúa cho phép hiện về vì “đã có các ngôn sứ nhắc bảo họ” (Lc 16,27-31).
Là Thiên Chúa khi tự mình sống lại, Đức Kitô đã hành xử quyền của Thiên Chúa khi ban bình an cho các môn đệ (Ga 20,19). Ơn bình an là ơn thuộc về Thiên Chúa. Con người không có ơn bình an để ban cho nhau. Con người chỉ chia sẻ cho nhau ơn bình an nhận từ Chúa.
Là Thiên Chúa, Ngài ban Thánh Thần cho các môn đệ (Ga 20,22), ban quyền tha tội (Ga 20,23), ban sứ mệnh giảng dạy, thánh hoá và năng quyền làm phép lạ trừ quỷ, nói tiếng lạ, chữa bệnh tật (Mc 26,15-17). Chỉ Thiên Chúa mới ban được những quyền này, chỉ Thiên Chúa mới ban được Thánh Thần, chỉ Thiên Chúa mới bảo kê hữu hiệu lời chứng của các tông đồ bằng quyền làm phép lạ. Nếu không phải Thiên Chúa, làm sao Phêrô đuổi được quỷ, trừ được tà, làm cho người què bẩm sinh đứng dậy mà đi khi ông “nhân danh Đức Kitô chịu đóng đinh” (Cv 3,6). Nếu không phải Thiên Chúa, làm sao các tông đồ từ những người hèn nhát đã được biến đổi thành những chứng nhân can đảm, tận tụy, hy sinh đến sẵn sàng hiến mình chịu chết để làm chứng Đức Kitô chịu đóng đinh đã sống lại. Không là Thiên Chúa, Đức Kitô đã không thể xây Giáo Hội của Ngài trên tảng đá tông đồ Phêrô, hơn hai ngàn năm qua và cho đến tận thế, tảng đá đó vẫn kiên vững trước bao sóng gió dập dồn, bao tấn công thô bạo, bao thù nghịch điên cuồng, sát khí.
Sự sống lại của Đức Kitô là nền tảng niềm tin của người Kitô hữu. Thánh Phaolô đã viết: “Nếu Đức Kitô không sống lại thì lời giảng dạy của chúng tôi là hư vô và niềm tin của anh em là mơ” (1Cr 9,14). Nếu Đức Kitô không sống lại thì tội lỗi của chúng ta vẫn còn đó (1Cr 9,17) vì chúng ta không được ơn cứu sống, ơn trở nên công chính (Rm 4,25), ơn được sống lại với Đức Kitô (Rm 6,8-9). Niềm hy vọng sống lại của chúng ta được đặt nơi chiến thắng sự chết của Đức Kitô khi sự chết bị Ngài tiêu diệt: “Hỡi thần chết, chiến thắng của ngươi ở đâu? Sức mạnh của ngươi ở đâu?” (1Cr 15,55).
Xin cho Niềm tin và Hy vọng ở nơi Đức Kitô Phục Sinh thúc bách, nâng đỡ tình yêu ta dành cho Ngài để như Phêrô, ta sẽ thân thưa với Ngài trong giờ lâm tử: “Lạy Chúa, Chúa biết con yêu mến Chúa” khi được Ngài hỏi: “Con có yêu mến Thầy không?”

Nến Cháy

https://www.youtube.com/watch?v=g3wLbnBjs-k
Giây phút lung linh phấn khởi và cảm động ấm lòng nhất với tôi trong đêm vọng Phục Sinh là lúc lửa từ cây nến lớn Phục Sinh được chuyền đến các cây nến nhỏ trên tay mọi người. Lửa Phục Sinh bừng cháy, sáng rực nhà thờ, rạng rỡ từng khuôn mặt, ấm áp mọi tâm hồn. Lửa Phục Sinh nhảy nhót mừng vui trên đôi mi chớp nhanh vừa quen ánh sáng, trên đôi tay gầy xương xẩu của tuổi già, trên má hồng au đỏ rạng rỡ mùa tình yêu. Lửa Phục Sinh xua khỏi nhà thờ màn đêm ảm đạm như đuổi đêm tối lạnh lùng ra khỏi lòng ai băng giá. Lửa cho ánh sáng tràn đầy, lửa cho niềm vui chan chứa, lửa cho tình yêu rạo rực, lửa trả về sự sống nguyên vẹn sau những ngày buồn, tang chế.
Nến cháy và sáng lên từ người này đến người kia, từ hàng ghế trước đến hàng ghế sau cho đến khi tất cả đều cháy sáng, tất cả đều rực sáng, tất cả đều rạo rực một niềm vui được chiếu sáng. Đêm nay có nến sáng, không chỉ sáng trên bàn thờ, dưới chân Thánh Giá, bên tượng Đức Mẹ, không chỉ sáng những cây nến có phúc được đốt dưới chân các Thánh, trên cung thánh, nhưng nến sáng trên tay mọi người, nến sáng trong tim từng người, nến sáng ngay trong cuộc đời mỗi người.


Cử chỉ chuyển lửa Phục Sinh cho nhau, đốt nến cho nhau, trao ánh sáng cho nhau trong đêm Phục Sinh là một hình ảnh tuyệt đẹp. Tuyệt đẹp vì ý nghĩa hợp nhất, chia sẻ, cộng đoàn của ánh sáng Đức Kitô Phục Sinh. Tuyệt đẹp vì nói lên mối liên quan mật thiết giữa các chi thể của thân thể Đức Kitô sống lại. Tuyệt đẹp vì hình ảnh hiệp thông trong Đức Tin, Đức Ái và niềm Hy Vọng của mọi thành phần trong Giáo Hội. Đêm nay, tất cả đều có nến trong tay, những ngọn nến được đốt sáng từ lửa phục sinh, từ cây nến lớn là Đức Kitô, ánh sáng muôn dân. Chung một ánh sáng, chung một lửa yêu thương như chung một phép rửa, mọi tín hữu thấy mình cùng thuộc về Đức Kitô, thuộc về Giáo Hội và thuộc về nhau. Người ta sẽ không đốt nến một mình, giữ nến một mình nhưng chia sẻ ánh sáng, chung hưởng ánh sáng, truyền cho nhau ánh sáng để ánh sáng rực rỡ, huy hoàng, rạng ngời hơn. Người ta không đốt nến rồi dấu dưới gầm giường hay lấy thùng đậy lại, nhưng giơ cao, đặt trên bàn cho ánh sáng tỏa lan, cho ánh sáng chan hoà. Nến sáng không còn là sở hữu của một người, nhưng là gia tài chung của cả nhân loại mà càng chia sẻ, trao ban, gia tài ấy càng sinh sôi nẩy nở…
Đêm nay, nến sáng được ân cần trao tay nhau đã xóa tan bóng tối ngăn cách và làm cho nhau nhận ra dung mạo dễ thương “con Chúa, anh em của nhau”. Mục đích của bóng tối là ngăn cách, chia rẽ, phá hoại. Như bức tường giữa con người với con người, bóng tối đã không cho con người nhận diện đúng đắn về nhau, không cho sự thật của nhau được tôn trọng, không cho diện mạo, giá trị của nhau được trân quý, không cho niềm vui của nhau được trọn vẹn, không cho đời sống của nhau được an bình. Bóng tối như tên phá hoại lợi dụng ánh sáng vắng mặt để gieo ngờ vực, thù hận, ganh ghét và dựng những hàng rào chia cách, cô lập, tạo những vùng cấm, bất khả xâm phạm, làm nên những biên giới, lằn ranh không được vượt qua trong cộng đồng nhân loại. Bản chất bóng tối không nối kết, hiệp thông nhưng biến con người thành kẻ thù, đối phương của nhau bằng gây hiểu lầm, bất hoà, đố kỵ.


Ánh sáng được ân cần chuyền tay nhau đêm nay là hình ảnh mọi người cùng tự nguyện xua đuổi bóng tối, cùng góp sức đạp đổ bức tường, cùng chung lòng xóa biên giới, hàng rào để nhờ ánh sáng, mọi người nhìn thấy nhau, hiểu nhau, bỏ qua cho nhau những hiểu lầm, thứ tha cho nhau những lầm lỗi phần lớn vì tối quá đã không nhìn ra. Ánh sáng được âu yếm trao tay nhau đêm nay sẽ làm cho lòng nhau ấm lại sau những tháng năm dài lạnh lẽo, hiu quạnh vì đời bị cô lập bởi những bức tường bóng tối nghi kỵ. Ánh sáng được vui vẻ trao tay nhau đêm nay cũng làm rung động những trái tim tưởng đã khô cằn, vô cảm nhờ sức hồi sinh, truyền cảm của ánh sáng. Đêm nay thật đẹp trong ánh sáng chứa chan tình Chúa, tình người. Đêm hồng ân, đêm hạnh phúc khi con người được ánh sáng Đức Kitô Phục Sinh giao hoà : Thiên Chúa giao hoà với con người và con người tìm về nhận diện, gặp gỡ, thông cảm nhau.
Đức Kitô là ánh sáng giải phóng con người khỏi những nhà tù của thù hận, ích kỷ, bon chen; là ánh sáng làm sụp đổ những bức tường ô nhục của vong thân, phản bội; là ánh sáng tiêu diệt bóng đêm tội lỗi đã biến con người thành nô lệ; là ánh sáng kéo con người ra khỏi bóng tối lầm lạc, nghi nan, tuyệt vọng.
Ngài không là ánh sáng làm chói mắt, không là ánh sáng soi mói, lột trần, không là ánh sáng thiêu đốt, trừng phạt; nhưng là ánh sáng êm dịu cứu chữa, ánh sáng nhẹ nhàng cảm thông, ánh sáng hiền lành che chở, ánh sáng nhân từ thứ tha, ánh sáng khiêm hạ ở gần. Ánh sáng Đức Kitô Phục Sinh mang ngây thơ, vô tội của tình yêu chết cho người mình yêu. Ánh sáng Đức Kitô nhuộm sắc máu của “tình yêu đến cùng” trên Thánh Giá. Ánh sáng Đức Kitô lấp lánh lòng thương xót của tình Cha nhân hậu. Ánh sáng Đức Kitô lắng đọng hào quang của một tấm lòng chỉ biết chạnh lòng bao dung.
Ánh sáng ấy không tiêu diệt con người cùng với tội lỗi, nhưng tách tội lỗi khỏi con người, nên bất cứ ở đâu và mãi mãi, tội nhân vẫn được lòng xót thương mời gọi. Ánh sáng ấy biết hậu quả tai hại của tội, nhưng cũng biết giá trị con người cao quý đến độ không gì có thể thay thế. Ánh sáng ấy nhìn ra từng hoàn cảnh của con người yếu đuối để giảm khinh, thương xót; nhìn từng kẽ hở của thân phận tội lụy để cảm thương, bênh vực; nhìn thấu từng đường tơ cọng chỉ của tâm tình sâu kín để chia sẻ, ủi an. Ánh sáng ấy cũng nhìn cặn kẽ từng góc cạnh của đường đời người lữ khách không luôn trung thành, bền bỉ để không lớn tiếng nặng lời trách móc, nhưng đằm thắm nhắc nhở, chỉ bảo, khuyên răn.
Ánh sáng Đức Kitô đem lại ơn cứu độ, ơn giải phóng, ơn làm người, ơn làm con Thiên Chúa. Ánh sáng trả lại tự do trong tình yêu, tự do trong tư tưởng, tự do trong đời sống của con người đã một lần trót đánh mất khi rơi vào tình trạng nô lệ. Tội là bóng tối biến con người thành nô lệ, làm con người mù loà, vấp ngã. Tội là bóng đêm làm con người chao đảo, ngã quỵ. Chỉ có ánh sáng mới xua đuổi được toàn bộ bóng tối và sẽ không còn tối khi ánh sáng ùa vào, không còn góc tối khi ánh sáng tràn lan, không còn khoảng tối khi ánh sáng ngự trị, không còn mảng tối khi ánh sáng ghé thăm, không còn đêm tối khi bình minh Phục Sinh ló rạng. Đức Kitô phục sinh là ánh sáng chiến thắng bóng tối, ánh sáng của sự sống chiến thắng bóng đêm tử thần, ánh sáng tình yêu tiêu diệt đêm đen thù hận, ánh sáng hy vọng xóa bỏ màn đêm tuyệt vọng, ánh sáng an bình phá tan đêm tối ngờ vực, lo âu.


Nhưng để là ánh sáng cứu độ, Đức Kitô đã phải đi qua đêm tối của chết chóc; để là ánh sáng giải phóng, Ngài đã phải sống những giây phút tối tăm khi Chúa Cha vắng mặt, không lên tiếng; để là ánh sáng bao dung, Ngài đã nằm yên trong mộ phần u tối. Ánh sáng tình yêu nơi Ngài không khơi khơi, lơ lửng, nhưng sáng lên từ đinh sắt, lưỡi đòng, mão gai, thập tự. Ánh sáng sự sống của Ngài không tùy tiện, bừa bãi, nhưng sáng lên từ “máu và nước” chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thủng. Ánh sáng bình an của Ngài không mơ hồ, vô định, nhưng sáng lên từ bàn tay, bàn chân gẫy nát, bấy máu, tím bầm. Thánh giá khổ đau làm nên nến sáng phục sinh. Nước mắt, máu đào là sáp cho nến cháy. Nến cháy nhờ sáp tiêu hao, nên sáp có chấp nhận bị tiêu hao, nến mới lung linh hạnh phúc; sáp có vui nhận đời tận hiến, quên mình, nến mới rực rỡ mắt sáng niềm vui; sáp có nhẫn nhục chịu mất mát, kiên trì ở lại, nến mới nồng nàn ấm áp niềm hy vọng. Tình của sáp làm ánh sáng của nến bao dung. Lòng của sáp làm ánh sáng của nến hiền lành. Tim của sáp làm ánh sáng của nến không biết mệt mỏi yêu thương. Trong sáp có hy sinh, nên lửa của nến mới thắm thiết, mặn nồng. Ở sáp có đau khổ, nên lửa của nến mới không ngừng thông cảm, thi ân. Nến sáng nhờ sáp chịu tiêu hao như tình yêu sống nhờ hy sinh, quên mình. Nến sẽ không cháy nếu sáp từ chối hiến mình. Nến sẽ không sáng, nếu sáp không chịu liên lỷ biến tan. Nến sẽ không nóng, nếu sáp không tự nguyện xóa mình như của lễ bị thiêu hủy.
Khi trao nhau ngọn nến đêm vọng Phục Sinh, chúng ta không chỉ trao nhau cây nến như bao nhiêu cây nến bình thường, vô tri, nhưng trao nhau ngọn nến sáng Phục Sinh được lấy từ lửa tình yêu trong trái tim Đức Kitô đã chết và vừa sống lại. Lửa của tình yêu chịu chết cho người mình yêu, lửa từ tình yêu hiến trọn cuộc đời cho người mình yêu, lửa nơi “tình yêu đến cùng, vô cùng” dành cho người mình yêu. Lửa ấy đã lan đến tay, vào trong hồn mỗi người khi nến Phục Sinh được thắp sáng.
Nhận nến sáng phục sinh trong đêm hồng phúc là nhận sứ mệnh của Đức Kitô phục sinh: “Chúng con là ánh sáng thế gian” (Mt 5,14) và để ánh sáng ấy soi đường, giải phóng, cứu sống, yêu thương thế gian, “chúng con hãy đi khắp nơi, đến tận cùng thế giới làm chứng về Thầy cho muôn dân” và Thầy sẽ ở với chúng con, như ánh sánh Tình Yêu, An Bình, cho đến tận thế (Mt 28,19-20).
Ước gì khi nhã nhặn trao nhau ánh sáng Phục Sinh, chúng ta cũng ân cần trao nhau tình yêu có hy sinh, chịu đựng, có nhẫn nại, thứ tha như sáp cho nến hồng rực sáng trong đêm ngóng đợi Thiên Chúa Tình yêu sống lại.

Những Người Phụ Nữ Trên Đường Thánh Giá


Đường đời chỉ có một, nhưng nhiều tuyến khác nhau trải trên nhiều cây số dài: có tuyến thênh thang, tráng nhựa cho xe cuộc đời phóng bon bon, nhưng cũng có tuyến gập ghềnh đầy hố bom, ổ bò; có tuyến sương mù dày đặc, hiểm trở cheo leo, có tuyến xa lộ thẳng băng, thoải mái, an toàn. Đường đời có khúc quanh, khúc thẳng, khúc ngang, khúc rẽ khiến lữ khách có vui có buồn, có nhục có vinh, có lên có xuống, có lúc bạn đồng hành nườm nượp, có khi thui thủi chiếc bóng đơn côi và đường đời mỗi người dài ngắn như cuộc đời có sinh có tử, có khởi có kết. Cái khác ở mỗi tuyến đường đời, nét đặc biệt của mỗi cây số đường đời là sự có mặt của người khác: đường vui dễ có bạn đồng hành, nhưng đường buồn thường cô quạnh, hắt hiu.
Đường đời Đức Kitô bước vào những cây số cuối cùng, trên tuyến về đoạn kết, với nhiều nhân vật mới xuất hiện như Caipha, Philatô, Hêrôđê, Simon người thành Kyrênê, Giuse Arimathê, hai tội phạm cùng chịu án đóng đinh, đội lý hình, đám đông hiếu kỳ… nhưng có nhiều người thân quen vắng mặt như các ông Anrê, Giacôbê, Philípphê, Batôlômêô, Mátthêu, Tôma, Tađêô...

Quan sát kỹ những khuôn mặt thân quen trên đường Thánh Giá, người ta thấy phía các ông vắng mặt nhiều hơn phía các bà.
Nếu kể hết những người đàn ông thân quen đã có mặt với Đức Kitô lúc này thì phải kể Phêrô, Giuđa, Gioan, nhưng ngoại trừ Gioan có mặt như người bạn, người môn đệ, còn hai ông kia đã hiện diện như hai người phản bội.
Phía các bà, ngoài mấy cô gái giúp việc trong dinh Thượng tế Caipha đã cắc cớ, hạch hỏi Phêrô: “Cả anh nữa, hình như anh cũng là môn đệ của Giêsu?” Miệng lưỡi “bắt nọn, dò thám, tra hỏi” đầy quyền lực và khôn khéo bắt chẹt của đàn bà đã làm Phêrô sợ hãi, quýnh quáng bai bải chối Thầy: “Cô nói gì kỳ vậy, tôi chẳng hề quen biết người này” (Ga 18,17). Kế đến là phu nhân quan tổng trấn Philatô. Bà kín đáo nhắc chồng: “Đừng can thiệp vào việc người công chính này, vì hôm nay tôi thấy trong người xốn xang, bất ổn vì một giấc chiêm bao về người đó” (Mt 27,19). Trực giác của đàn bà đã ngăn cản hành động sai lầm của đàn ông. Rất tiếc, Philatô đã không nghe những cảnh giác, nhắc nhở của vợ, vì mị dân và sợ mất chức.
Còn lại là “những người phụ nữ thành Giêrusalem đi theo đấm ngực, khóc thương Chúa” (Mt 23,27); dưới chân thập giá thì có “Maria, mẹ Đức Giêsu” (Ga 19,25), “bà Maria Mađalêna, bà Maria, mẹ hai ông Giacôbê và Giuse và bà Giêbêđê” (Mt 27,56); táng xác Đức Giêsu thì cũng là Maria, mẹ Ngài và hai bà Maria Mađalêna và Maria, mẹ hai ông Giuse và Giacôbê (Mc 15,47). Sáng sớm ngày “thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời chưa mọc thì bà Mađalêna, bà Maria, mẹ ông Giacôbê và bà Salômê” cùng mang thuốc thơm ra thăm mộ Đức Kitô (Mc 16,1-2) và Mađalêna đã từ mộ trống chạy về báo tin Phục Sinh cho các môn đệ còn đang lẩn trốn vì sợ người Do Thái lùng bắt (Ga 20,18).
Các bà đã đi theo và ở lại với Đức Kitô cho đến cây số cuối cùng của đường Thánh Giá vất vả, tang thương. Khuôn mặt phụ nữ chiếm trọn không gian đẫm máu và nước mắt từ phút đầu bị bắt đến đỉnh đồi Canvê thê thảm và mộ phần tăm tối. Bóng dáng đàn bà đã bám chặt từng phút của thời gian chịu nạn. Bàn tay non nớt của phái yếu đã giải quyết hậu sự của đại sự cứu chuộc. Đôi chân mềm, thon nhỏ của phái đẹp đã đạp trên gai góc, đá sỏi của đoạn đường đầy thử thách kinh hoàng. Các bà đã cương quyết hơn phái mạnh, đã can đảm hơn nòi giống anh hùng, đã lì lợm hơn các “đấng mày râu”, nhất là đã hết tình, trọn tình cho người mình yêu.
Các bà đã hết tình với Đức Kitô vì đã yêu bằng một tình yêu chân thực. Khi yêu ai, ta bị hút bởi người ấy khi sẵn sàng ra khỏi mình để hướng về người ấy; đồng thời mở tâm hồn, thân xác để đón nhận người ta yêu. Chính vì mở ra để đón nhận, mở ra để hướng tới mà khi yêu, trái tim ta trở nên dễ đau, dễ vỡ, dễ khổ, dễ buồn vì từ đây ta mang người khác với tất cả cuộc đời của họ, mang người ta yêu với buồn vui, thành công, thất bại của họ.

Nhận hết về mình, đón hết cho mình, mang trọn trong mình, nên người yêu khổ thì ta đau, người yêu khóc thì ta rơi lệ, người yêu nhục thì ta tủi, người yêu thất bại thì ta xót xa, người yêu buồn thì ta sầu héo. Đời ta mang đời người ấy vì ta yêu chính con người và cuộc đời họ. Điều gì xúc phạm đến con người họ là xúc phạm đến ta. Và ta có thể hy sinh tất cả, trở nên mọi sự để yêu thương, che chở, cứu chữa, nâng đỡ, bảo vệ người ta yêu.
Tình yêu chân thực, vì nhắm thẳng con người nên không là tình chỉ yêu khi có lợi, yêu người khác vì yêu mình, yêu người khác vì tình của họ thoả mãn những đòi hỏi vật chất, tinh thần của ta. Yêu chân thực vì thế sẽ không độc quyền, độc tài, độc đoán, kể cả độc ác, vì yêu là yêu chính đối tượng, yêu con người đối tượng, yêu vì hạnh phúc của đối tượng hơn là yêu những gì đối tượng làm cho ta.
Tình yêu này sẽ không đưa đến giận dữ, hận thù, vì sẽ không rơi vào tình trạng: khi tình có lợi thì vui, khi tình bất lợi thì buồn, khi đánh mất tình thì chán nản, thất vọng. Lợi ích thu nhặt trong tình yêu không phải là điều tình yêu tìm kiếm, nhưng con người được yêu mới thực là đối tượng của tình yêu. Yêu chính con người nên tình vượt trên những tính toán thực dụng, những tình cảm lúc có lúc không, ngay cả lý tưởng bám trên con người ấy, bởi lý tưởng có thể mất trong khi con người vẫn còn. Tình yêu chân thực không nhắm lợi nhuận hay thành quả, được việc, nên khi người yêu không còn gì, mất tất cả, hay bất lực, tàn phế, ta vẫn yêu được họ, vì con người họ mới chính là đối tượng của tình yêu. Lấy lợi ích, thành quả, ngay cả những điều tốt lành người yêu có thể mang lại làm đối tượng của tình yêu, ta đã vô tình dọn đường đến nghĩa địa cho tình yêu, bởi sẽ có lúc tình yêu chết đứng giữa trời khi người yêu không còn có lợi, không thể mang lại thành công, thành quả, thành tích. Đó là sự khác biệt giữa buổi sáng Đức Kitô làm phép lạ cho năm chiếc bánh và hai con cá hoá thành nhiều với đông đủ các tông đồ (Mc 6,38) và buổi chiều thứ sáu tuần thánh chịu đóng đinh trên Thánh Giá với duy nhất một mình môn đệ Gioan (Ga 19,26).
Hướng đến duy nhất con người Đức Kitô như đối tượng của tình yêu, các bà đã có mặt chia sẻ, lo liệu cho người mình yêu dù người mình yêu đã chết, chẳng còn gì để cho, chẳng còn chi để mơ ước, hy vọng. Yêu trọn vẹn con người Đức Kitô, các bà đã đặt trọng tâm tình mình vào một mình Đức Kitô, nên ngay khi Ngài một mình thất thế, thất bại, một mình vác thập giá, một mình chịu đóng đinh, một mình chết tức tưởi, một mình trong mộ phần lạnh lẽo, các bà vẫn hết tình, trọn tình vì chỉ một mình Ngài, duy một mình Ngài là Đấng các bà yêu thương.
Tình yêu chân thực đã làm trái tim các bà nhạy cảm trước đau khổ của Đức Kitô và hiểu được nỗi niềm của Ngài. Tình yêu làm cho khả năng đón nhận nơi các bà nhạy bén, tinh tế để nhận ra tín hiệu của Lời và Tình Yêu từ trái tim Ngài. Tình yêu cho các bà lòng xót thương trước nhục nhằn, khó nhọc, cô đơn của người tử tội đang lê những bước vất vả dưới sức nặng của thập giá. Tình yêu cho các bà nghị lực để nhẫn nại chịu đựng và can đảm lăn xả, liều thân vì Đức Kitô. Tình yêu đã không còn làm các bà sợ bị chụp mũ, theo dõi, truy lùng, bắt bớ như các tông đồ đã sợ và đồng loạt bỏ trốn. Tình yêu đã không làm các bà tiếc công tiếc của, tiếc giờ ở lại đến cùng dù biết rằng theo Ngài, ở lại với Ngài lúc này là chọn lựa bất lợi, “mang hại vào thân”. Tình yêu chân thực đốt cháy tâm can, thúc giục các bà cáng đáng những việc rất khó, đi vào những nơi rất khó, nói lên những lời rất khó mà nhiều người khác không làm được sợ bị phiền phức, liên lụy. Và tình chỉ hướng về con người mình yêu đã dẫn các bà đến hoa trái của tình yêu là cho đi chính mình.
Cho đi chính mình vì người mình yêu là cao điểm của tình yêu khi chủ thể vượt qua hàng rào những ham muốn của ích kỷ, vượt thoát “cái tôi” trung tâm. Khuynh hướng ích kỷ, hưởng thụ, tôn thờ, o bế “cái tôi” luôn có mặt và tác yêu tác quái trong tâm hồn mỗi người. Triết học gọi là “vị kỷ”, một khuynh hướng tiềm tàng làm con người rất khó ra khỏi quỹ đạo “cái tôi” để đến với người khác, càng khó khi phải cho đi và rất khó khi phải hiến thân, hiến mình. Thần học xếp những rào cản này vào hàng hậu quả của tội nguyên tổ. Để vớt vát, người ta sắp xếp một công ước tạm, đó là: tôi hiến thân cho anh, nhưng tôi muốn anh cũng phải hiến thân cho tôi, để tôi không thua lỗ. Xét trên bình diện thực tế nhân loại, tình “có đi có lại” mới bền, mới toại lòng nhau, nhưng xét cho cùng, tình yêu kiểu “bánh ít đi, bánh quy lại” cũng chỉ là tình bị ích kỷ giới hạn, kiểm soát: tôi yêu người khác vì chính tôi, hơn là yêu người khác vì họ. Ích kỷ đã chiếm cứ mảnh đất trái tim, đòi hỏi quyền kiểm soát và giới hạn món quà dành cho tha nhân khi ra lệnh cho trái tim không được quên phần mình.

Tình các bà dành cho Đức Kitô hôm nay trên những cây số sau cùng của đời Ngài là tình yêu các bà đã học ở Ngài. Các bà đã nhạy bén nhận ra tình của Đức Kitô trong suốt năm tháng truyền giáo là một tình yêu hoàn toàn quên mình, một tình yêu trọn vẹn cho đi, một tình yêu toàn phần dâng hiến. Đức Kitô đã không giữ lại cho mình bất cứ một mối lợi hay đòi quyền sở hữu trên bất cứ một thứ gì, một người nào khi yêu thương. Tình của Ngài tinh ròng, trong sáng, vuông vức, tròn trĩnh; có nghĩa là không sứt mẻ, mờ tối vì ích kỷ, vì “cái tôi”. Cảm phục và cảm mến tình yêu vô vị lợi, tình yêu cho đi không cần hồi đáp, tình chấp nhận trao dâng một chiều của Đức Kitô, các bà đã học yêu như Ngài và đang áp dụng bài học yêu chân thực, yêu hết tình, hết mình khi ở với Ngài dưới chân thập tự, bên mộ phần ảm đạm, buổi sáng sớm phục sinh.
Sự có mặt của các bà làm nổi bật sự vắng mặt của các ông. Không phải vô cảm hay vô ơn mà đồng loạt vắng mặt, nhưng vì các ông đã dành cho trí thông minh một chỗ đứng ưu tiên trên tình yêu. Con rắn, hình ảnh của Lucifer, trong vườn địa đàng đã thành công lôi kéo Ađam và Evà kiêu ngạo khi khôn khéo đưa đẩy ông bà đi theo đòi hỏi của trí thông minh, thay vì chấp nhận đòi hỏi của tình yêu. Thiên Chúa muốn hai ông bà ở trong tình yêu khi vâng phục lời căn dặn yêu thương của Ngài: “Đừng ăn quả của cây này”. Khi căn dặn như vậy, Ngài muốn giữ ông bà trong hạnh phúc của bí mật tình yêu, bí mật mà bất cứ một mối tình nào, người tình nào cũng trân quý như một quà tặng mầu nhiệm cho nhau. Bí mật giữa hai người yêu nhau, bí mật giữa tình nhân, bí mật của vợ chồng là bí mật tuyệt vời, bí mật cao đẹp và quý báu mà bất cứ ai cũng không được phép tìm biết; bởi khi bí mật ấy bị lộ tẩy, bị té tát trước công chúng, bị phanh phui trước mọi người thì tình của họ không thể tồn tại, vì bí mật chính là sức sống của tình yêu. Trong tình yêu giữa hai người, khi không còn bí mật, người ta hết yêu nhau và không còn hiểu tình yêu là gì nữa bởi bí mật trong tình yêu nối kết hai người yêu nhau, làm nên sức mạnh của tình yêu để họ có thể tiếp tục đồng hành trên đường tình muôn lối.
Đặt ông bà nguyên tổ trong trạng thái và bầu khí tình yêu trọn vẹn với Ngài, Thiên Chúa có với ông bà một bí mật, bí mật đó là lòng vâng phục. Vâng phục trong tình yêu không phải “vong thân, đánh mất mình” như khi miễn cưỡng vâng lời một quyền bính độc tài, độc đoán. Trái lại, vâng phục trong tình yêu là hợp tác chân thành với một người lớn hơn mình, có quyền trên mình để đem lại hạnh phúc cho mình. Vâng phục như thế là vui vẻ tự nguyện lệ thuộc vào một người lớn hơn để được hạnh phúc, vì trong vâng phục ấy, người lớn hơn yêu thương, kết hợp và đem lại tự do cho người bé nhỏ vâng phục mình. Vâng phục trong tình yêu luôn dắt đến hiệp nhất và tự do, vì mục đích của vâng phục là làm triển nở nhân vị và đời sống của người vâng phục, đồng thời đem lại hạnh phúc tối đa cho họ, như Thiên Chúa đã muốn ông bà nguyên tổ vâng phục là để ông bà được tự do, hiệp nhất và hạnh phúc trong Ngài. Thần dữ không muốn ông bà tự do, hạnh phúc đã tìm cách phá hủy lòng vâng phục bằng thúc đẩy ông bà bất tuân, từ chối vâng phục. Ma quỷ đã dụ ông bà ra khỏi bầu khí yêu thương để rơi vào vùng lý luận khi xúi ông bà đừng thèm lệ thuộc Thiên Chúa, nhưng hãy tự mở trí khôn, dùng trí thông minh của mình để biết như Thiên Chúa biết, hiểu như Thiên Chúa hiểu, nghĩa là trở nên bằng Thiên Chúa khi tự phá hủy bí mật tình yêu giữa Ngài và ông bà.
Đặt trí thông minh và lý luận trên tình yêu, con người dễ rơi vào tình trạng xóa bỏ mọi bí mật và muốn biết hết mọi sự, muốn mọi sự được chứng minh, kiểm nghiệm. Nhưng chính khi đòi bằng Thiên Chúa vì mình thông minh, con người đã tự nghiền nát chính mình vì lúc ấy con người thực sự vong thân, mất tự do khi lệ thuộc ma quỷ vốn thấp kém hơn con người và chỉ tìm vinh quang cho nó, thay vì mưu tìm tự do, hạnh phúc cho con người.
Con trai thường giống mẹ, nghe mẹ hơn bố, như đàn ông giống mẹ Evà khi suy nghĩ mông lung, bâng khuâng thắc mắc và muốn tò mò tìm biết: Tại sao có cây biết lành biết dữ? Tại sao Thiên Chúa dặn dò không được ăn? Tại sao và tại sao? Cũng vì những “Tại sao?” đầy óc, đầy đầu mà các ông đã không yêu thương và trung thành được như các bà, vì không tôn trọng bí mật của tình yêu. Các ông môn đệ của Đức Kitô đã thắc mắc, để rồi phân vân, nghi ngờ sứ mệnh và vai trò Cứu Thế của Thầy. Các ông đã dùng đầu óc thông minh, vận dụng khả năng lý luận trí thức để đặt lại vấn đề đi theo Thầy của mình. Các ông đã vặn ép trí khôn để rồi xếp Thầy mình vào hàng những người mang nhiều ảo tưởng. Chính vì ra khỏi những bí mật tình yêu giữa Thầy trò, những ân cần căn dặn riêng tư trong bữa cuối, những bí mật về con người - Thiên Chúa của Thầy mà các ông đã bỏ rơi Thầy mình ở những cây số chông gai, thử thách cuối đời. Thông minh nhân loại đã hướng dẫn lý luận con người của các ông để không một mầu nhiệm tình yêu nào giữa các ông và Đức Kitô còn cơ may tồn tại. Kết quả là các ông đã cư xử với Ngài tệ hơn nhiều người khác không quen biết Ngài.

Các bà thì ngược lại: tình yêu lúc nào cũng ưu tiên, nên yêu không cần suy nghĩ, thương không cần lý luận. Các bà cần và sống cho những bí mật của tình yêu vì trái tim các bà là nơi gìn giữ, bảo tồn bí mật. Bí mật của tình yêu với Đức Kitô nơi các bà là tình cho đi không tính toán của Ngài. Chỉ một điều ấy thôi đã tạo ấn tượng lớn, sâu sắc trong tim các bà và trái tim đã nhạy bén hiểu được chính xác sứ điệp của tình yêu ấy. Chỉ một lần được ngồi dưới chân, được tha thứ, được an ủi, được nâng đỡ đã đủ làm con tim các bà suốt đời lưu giữ bí mật tình yêu của Đức Kitô và sự thông minh của tình yêu, không như trí thông minh lý luận của nam giới, đã cho các bà trực giác, linh cảm đại sự của Ngài còn tiếp nối sau buổi chiều tử nạn.
Bí mật của tình yêu thì chỉ tình yêu mới có khả năng giải mã. Lấy thông minh, lý luận mà giải mã bí mật tình yêu là giết chết tình yêu, vì tình yêu không chịu bị mổ xẻ, phanh thây nhưng đòi toàn phần, toàn diện, toàn thân. Với toàn thân hy sinh, toàn diện cộng tác, toàn phần trao tặng, các bà đã hoàn toàn cho Đức Kitô và vì Ngài, ngoài ra không nhắm bất cứ một phúc lợi, vinh dự nào cho mình.
Những ngày chịu nạn, Đức Kitô đã bị phần đông các ông bỏ rơi. Cũng may còn có các bà; nếu không thì thật là tội nghiệp!

Đàn ông thường ỷ mình thông minh, nhưng chưa chắc thông minh của trí khôn đã nắm bắt được những thực tại mầu nhiệm của tâm hồn. Đàn ông cậy mình suy nghĩ chín chắn nhưng chưa chắc đã qua mặt được trực giác, linh cảm của đàn bà. Đàn bà bé nhỏ hay bị đàn ông ăn hiếp và chê là “cạn suy, chậm hiểu”, nhưng suy hiểu của trí khôn chưa chắc thấu đạt những lý lẽ bí mật của trái tim. Đức Kitô đã có lần đặt tình yêu đơn sơ của những người bé nhỏ lên trên trí thông minh của những người khoa bảng và tạ ơn Chúa Cha đã “không cho những người khôn ngoan, thông thái biết những mầu nhiệm, mà chỉ tỏ cho những người bé mọn” (Mt 11,25). Tình yêu thì luôn bé nhỏ như phận nữ luôn bé bỏng, mong manh; nhưng chính trong mong manh, bé nhỏ Thiên Chúa đã gửi gắm những bí mật tình yêu của Ngài cho nhân loại.
Xin cho các bà mẹ, các bà chị, các cô em của chúng tôi luôn sống chân thực với tình yêu của mình để như Đức Maria luôn giữ kín mầu nhiệm tình yêu ấy trong lòng (Lc 2,51) và như Mađalêna loan báo Tin Mừng Sống Lại với trái tim tràn ngập mầu nhiệm tình yêu (Ga 20,18).

Nhân Danh


https://www.youtube.com/watch?v=qc93UWA1NSY
Sai lầm lớn của người kiêu ngạo là nghĩ tự mình làm nên tất cả, một mình “tự lực cánh sinh”, tự sức mình “công thành danh toại” mà không cần đến ai.
Người kiêu ngạo vô tình hoặc cố tình quên một điều quan trọng: ngay cả được nhận là “tự lực tự cường, tự lực cánh sinh, tự biên tự diễn, tự tung tự tác”, ít nhiều họ cũng đã dựa vào danh tánh, danh giá, danh dự, danh xưng, danh nghĩa, danh thế của ông bà, cha mẹ, gia đình, tổ chức, trường lớp, hội đoàn, quốc gia, dân tộc, Giáo Hội vì con người không bẩm sinh toàn năng và không luôn luôn, mãi mãi tự mình làm được mọi sự. Con người chỉ nhất thời thành công và một thời vang bóng, chứ chẳng ai “vạn đại” huy hoàng và “thiên thu” vinh hiển; vì thế đã có nhiều thời lận đận và một phần đời “bóng ẩn, vô danh”.
Lận đận, không tự mình đứng vững trên đôi chân, nên mượn chân người khác để bước tới. Lao đao, không tự vượt được sóng gió cuộc đời nên nắm sào của người khác để khỏi chìm xuồng, chết đuối. Vô danh, không ai biết đến nên mượn “danh thiếp”, xin thư giới thiệu, cần đôi lời ngỏ đẩy đưa, đánh bóng của người khác để được thành người “hữu danh với đời”. Và hiện tượng bóng tan, hình tàn, ảnh chụp phôi pha, nhạt nhoà phải nhờ cậy danh thế rực rỡ, danh thiếp “nhiều hàng” của người khác để tái chế, phục hồi, “bo” lại “cái tôi” là câu chuyện của đời thường rất bình thường và không ai ngạc nhiên khi thấy ta và người, người cùng ta đều nhốn nháo, không mệt mỏi nhân danh người này người nọ, nhân danh thế lực này thế lực kia, nhân danh đoàn thể, tổ quốc, tôn giáo, nhân danh các thứ lý tưởng, các thứ giá trị hữu hình, vô hình, nhân danh những ý niệm trừu tượng, tôn giáo, thần thánh, nhân danh cả Thiên Chúa, địa ngục, luyện ngục, thiên đàng trong sinh hoạt hàng ngày giữa nhau. Nhân danh người khác, nhân danh một giá trị, nhân danh một lý tưởng, nhân danh một thực thể siêu hình, thiêng liêng là một việc mà người ta làm nhiều và dễ dàng đến độ nhiều khi chính đương sự cũng không ý thức mình đang làm cái việc “mượn tiếng, nhân danh” bừa bãi ấy.
Như thế, nhân danh một người là mượn uy tín, cậy uy lực, nhờ uy quyền của người ấy; nhân danh một tổ chức là núp bóng vinh quang của tổ chức ấy; nhân danh một Đấng thiêng liêng là thần phục, tôn thờ, tín thác, cậy trông vào Đấng ấy và đương sự nhân danh tự nhận mình bé nhỏ, yếu đuối, cần được giúp đỡ, chở che trước người, trước tổ chức, trước Đấng mình nhân danh. Cầm tấm danh thiếp của ông chủ tịch ủy ban đến gặp phòng nhân sự, ta dựa vào uy tín của ông chủ tịch để có được một chỗ làm mà ta biết trước: nếu tự mình đến, chắc chắn sẽ bị từ chối với đủ mọi lý do. Đến gặp Bề Trên với danh nghĩa cộng đoàn giáo xứ sẽ dễ dàng được việc hơn “một mình chiếc bóng đơn côi”. “Con ông cháu cha” hay anh chị của dì phước khi có việc vẫn sáng giá, nặng cân hơn những anh chàng, cô nàng “vô danh tiểu tốt”, không gia thế cũng chẳng vai vế trong xứ đạo. Xã hội là cộng đồng liên đới, nên việc tốt, tiếng thơm của cha mẹ tạo cho con cái một vị thế được yêu mến, uy tín của một tổ chức tạo tiếng nói cho thành viên và mọi người được hưởng hoa trái thơm ngọt của người khác một cách bình thường, tự nhiên.
Đường vào khổ nạn của Đức Kitô bắt đầu “ngon lành” bằng cuộc đón rước hoành tráng của đám đông khi họ hoan hô Ngài là “Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến” (Ga 12,13), nhưng lập tức có dấu hiệu “chẳng lành” khi các Thuợng tế và Hội Đồng Kỳ Mục được nhóm họp bất thường để nhân danh Thiên Chúa, nhân danh trật tự đạo đức, nhân danh lề luật Môsê, nhân danh lợi ích chung của dân tộc, nhân danh tương lai của con cháu Israel ra quyết định khẩn cấp triệt hạ Đức Kitô dưới chiêu bài hợp tình hợp lý: “Thà một người chết cho toàn dân được nhờ” (Ga 12,48-50), để rồi những cây số tiếp theo trên đường Thánh Giá đã thêm nhiều “nhân danh” khác càng lúc càng “chẳng lành”, đặc biệt “nhân danh” của Thượng tế Caipha: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, ta truyền cho anh phải nói: anh có phải là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa không?” Thượng tế nhân danh Thiên Chúa hạch hỏi Đức Kitô nhưng chủ yếu là kết tội Đức Kitô “phạm thượng” khi nhân danh Thiên Chúa.
Ngài có tên là Thiên Chúa (Tv 67,5) và danh tánh Ngài là Thánh (Ed 36,23), là Vinh Quang, Vinh dự (Tv 8,2; 88,3; 134,13), là Sức Mạnh toàn năng (Tv 19,8), là Cứu Nguy, Phù Hộ (Tv 123,8), là Thương Xót chở che (Tv 19,2), là Bao La, Vĩ Đại (Ml 1,11), là Vĩnh Cửu, đời đời (Tv 134,13) và vượt trên hết các tên (Ep 1,21).
Danh Ngài phải được kính sợ (Tv 60,6), yêu mến (Tv 5,12; 60,37) và loan truyền (Tv 21,23; Ga 17,6; Rm 9,17). Danh Ngài phải được ca ngợi, chúc tụng (Tv 7,18) và nài xin, khẩn cầu (St 4,26; Rm 10,13). Không ai được xúc phạm, khinh mạn, làm ô uế Danh Ngài (Lv 22,32; Gr 34,16) hay lấy Danh Ngài mà thề nguyền bừa bãi (Lv 19,12). Hãy nhân danh Ngài mà giảng dạy (Gr 26,16), nhân danh Ngài mà nói tiên tri (Gr 14,15), chúc phúc ( 2S 6,18), thanh tẩy (Mt 28,19; Cv 2,28), nhân danh Ngài mà xua đuổi tà thần (Lc 9,49); Mc 16,17), chữa lành bệnh tật (Cv 3,6; 4,9-10).
Đó là “nội dung” Danh Thiên Chúa và những đòi hỏi đối với Danh Ngài. Đó cũng là kết quả nhận được từ Danh Ngài. Nhưng thực tế Danh thánh ấy đã bị con người thi nhau bôi nhọ, lạm dụng.

1.   Con người đã “nhân danh Thiên Chúa” là Tình yêu như bình phong che giấu ác tâm và hành động thiếu bác ái, từ tâm đối với anh em. Khi muốn tiêu diệt Đức Kitô, các thượng tế, luật sĩ đã tỉnh bơ nhân danh Thiên Chúa và tự động nhân danh quyền lợi của Thiên Chúa. Danh Thiên Chúa được sử dụng như lá chắn che đậy âm mưu kết tội người vô tội, lên án người công chính, chỉ vì ghen tức, hận thù và vì người ấy không thuộc tổ chức, đoàn thể, không theo đường lối, chủ trương của mình. Không tìm được tội, không kiếm ra lỗi nơi Đức Kitô, các ông phải nại đến Thiên Chúa ở trên cao và rất xa, mượn danh Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng, không nói gì, không phản ứng gì trước những hành động vấy máu người vô tội. Các ông biết, chỉ có cách nhân danh Thiên Chúa thinh lặng mới bịt được miệng đám đông và những người ủng hộ Đức Kitô; chỉ có cách nhân danh Đấng vô hình, mới chặn được những phản ứng của những người sống hữu hình; chỉ có cách nhân danh Thiên Chúa ở trên trời, mới thực hiện được những ý đồ đen tối, ác ôn ở dưới đất; chỉ có cách nhân danh Thiên Chúa nhân hậu mới kiếm cho mình chút uy tín và dáng dấp hiền lành hầu dụ dỗ, lừa bịp dân chúng và dẫn họ vào mê lộ hận thù, ghen ghét.


Các ông đã nhân danh một Thiên Chúa vắng mặt để lên án một Thiên Chúa có mặt, đã nhân danh một Thiên Chúa công bình để kết tội một Thiên Chúa công chính, đã nhân danh một Thiên Chúa yêu loài người để xử tử một Thiên Chúa làm người. Khi nhân danh Thiên Chúa, các ông không coi mình là người nhỏ bé, thụ tạo mong manh trước Đấng toàn năng mà các ông phải cần đến; trái lại, các ông đã đặt danh Ngài dưới sự điều khiển của mình khi “tác yêu tác quái” và làm ô uế danh Ngài bằng chủ trương hận thù, hành động hận thù, tiếp sức cho hận thù.
Hận thù không là tình yêu như bóng tối không là ánh sáng, nên đâu có hận thù ở đó không có tình yêu, đâu có bóng tối, ánh sáng không có mặt. Khi nhân danh Thiên Chúa là tình yêu để trả thù con người, nhân danh Thiên Chúa là tình thương để cưỡng chế con người, nhân danh Thiên Chúa an bình để gieo rắc tao loạn, con người đã xúc phạm trầm trọng Danh thánh Chúa, vì đi ngược đòi hỏi của danh Ngài.


Là tình yêu, Thiên Chúa chỉ cho mượn danh Ngài để yêu thương, cho dùng danh Ngài để an ủi, cho lấy nhân danh Ngài để xây dựng một thế giới huynh đệ, bác ái, nhân bản. Ngài không chấp nhận bất cứ ai cướp danh Ngài mà kêu gọi cô lập, đàn áp, trấn lột, hành hạ người khác, vì hạnh phúc được yêu thương của người khác là vinh quang của danh Ngài, niềm vui được an ủi, sẻ chia của người khác là sức mạnh của danh Ngài, hoan lạc được tha thứ, cứu độ của người khác là ơn sủng từ danh Ngài.
Vì thế, khi ai đó nhân danh Đức Kitô - Thiên Chúa để bắt người khác phải khổ đau, bất hạnh, ép người khác phải khốn đốn, gian lao, đẩy người khác vào đường cùng, ngõ bí, người đó không phải đến từ Thiên Chúa, không được Thiên Chúa sai, không là sứ giả loan báo Tin Mừng Cứu độ. Một ai đó tự tiện nhân danh Đức Kitô – Thiên Chúa để căm phẫn trừng phạt, điên cuồng nghiền nát, phẫn nộ đánh gục người khác, dù họ là ai: đối phương kẻ thù hay người không cùng chính kiến, đường lối, phe nhóm là mạo danh Thiên Chúa, giả danh Đức Kitô, Đấng đến không để hủy diệt, dập tắt, nhưng để yêu thương, băng bó, chữa lành, thứ tha, giao hoà.
Người thuộc về Thiên Chúa sẽ nhân danh Thiên Chúa để chúc phúc, ban bình an. Người yêu mến Thiên Chúa sẽ nhân danh Thiên Chúa để đỡ người vấp ngã dậy, chữa lành kẻ tật bệnh (Cv 3,6). Người của Thiên Chúa sai đến sẽ nhân danh Thiên Chúa an ủi kẻ âu lo, thứ tha người có tội (1Ga 2,12), bênh đỡ người yếu đuối, quả phụ, mồ côi. Người có Thiên Chúa sẽ ký thác đời mình vào danh Chúa để như Phêrô, Gioan: “Vàng bạc tôi không có, nhưng tôi cho bác những gì tôi có. Đó là: nhân danh Đức Giêsu Kitô, người làng Nazareth, tôi truyền cho bác đứng dậy mà đi” (Cv 3,6). Hai tông đồ của Đức Kitô đã nhân danh Đức Kitô ban cho bác hành khất bị què từ lúc mới sinh quà tặng lớn lao, lớn hơn ước mơ của bác, đó là được đứng dậy đi. Và dấu chỉ duy nhất để nhận ra ai là người của Thiên Chúa chính là việc làm bác ái, lời dạy yêu thương của người ấy khi họ hành động “nhân danh Đức Kitô”.
Cũng vậy, ma quỷ không thể nhân danh Thiên Chúa vì Hận Thù không thể đi với Tình Yêu, nên ai nhân danh Thiên Chúa Yêu Thương để phục vụ Hận Thù, người ấy không thuộc về Thiên Chúa, nhưng mạo danh Thiên Chúa phục vụ ma quỷ. Các thượng tế, luật sĩ Do Thái đã nhân danh Thiên Chúa để giết Thiên Chúa. Các ông đã lấy danh Thiên Chúa mà thi hành kế hoạch phi nhân, gian ác của thần dữ. Điều đáng trách nơi các ông là sự lạm dụng triệt để danh Thiên Chúa cho những việc làm thiếu từ tâm, bác ái, chống lại chính Thiên Chúa là Tình Yêu.

2. Nhân danh Thiên Chúa để áp đảo sự thật và tiêu diệt chứng nhân sự thật. Khi Nicôđêmô lên tiếng giữa buổi họp Hội Đồng: “Lề Luật của chúng ta không kết án ai khi chưa tra hỏi người ấy trước và chưa biết việc người ấy làm”, ông đã bị cả đám Biệt Phái phản đối dữ dội: “Cả ông nữa, ông cũng là người xứ Galilê? Hãy mở Kinh Thánh mà xem, có tiên tri nào xuất hiện từ Galilê bao giờ” (Ga 7,51-52).
Họ nhân danh Lời Chúa để “cả vú lấp miệng em” trấn áp một sự thật mà họ không muốn đối diện, đó là: phải điều tra thật kỹ lưỡng trước khi kết tội một người, nếu không sẽ kết án oan uổng người vô tội. Sự thật này các ông biết, nhưng cố tình tránh né, trốn chạy bằng cách to miệng nhân danh Lời Chúa trong Kinh Thánh để xóa bỏ sự thật của tội ác mà các ông đang quyết tâm làm cho bằng được. Hận thù làm tăm tối trái tim và ánh sáng chân lý không đến được tâm hồn độc địa, gian ác. Để biện minh cho hành động phủ nhận sự thật, các ông đã nhân danh sự thật của Lời Chúa để bịt miệng chứng nhân sự thật. Nicôđêmô đã không lên tiếng được vì sự thật đã bị bóp cổ chết tức tưởi khi cả đám sấn sổ chửi bới, nguyền rủa, thoá mạ, vì ông đã bênh vực cho Sự Thật là Đức Kitô.
Thượng tế Caipha cũng nhân danh quyền lợi của đền thờ Thiên Chúa để dẹp ngang sự thật của Đức Kitô khi Ngài trả lời ông và đơn phương kết tội Ngài là “phạm thượng và không cần thêm chứng cớ gì nữa” khi Ngài khẳng định: Tôi là Con Thiên Chúa (Mt 26,60-65). Sự thật bị phủ đầu, “bề hội đồng” cách man rợ, phi nhân khi gian dối được nước tung hoành. Con người gian đến độ nhân danh Nhà Chúa để giết Thiên Chúa; con người nói dối đến độ đem chính Thiên Chúa là Thiên Chúa của sự thật làm cầu chứng cho lưu manh, xảo quyệt. Kết quả là: “Tôi đến nhân danh Thiên Chúa, Cha tôi thì các ông không đón nhận, nhưng nếu có người khác lấy danh nghĩa mình mà đến thì các ông lại tiếp rước. Thật tình, các ông chỉ tìm vinh quang cho nhau, còn vinh quang đến từ một mình Thiên Chúa thì các ông lại chối bỏ!” (Ga 5,43-44). Và Đức Kitô đã lắc đầu thất vọng trước ngoan cố điêu ngoa của họ (Ga 5,45-47).


Thiên Chúa là Sự Thật, nhưng sự thật thường xuyên bị người ta nhân danh chính Thiên Chúa mà bóp méo, xuyên tạc. Miệng lưỡi con người độc như nọc rắn và lưỡi ấy lại không xương nên đã bao nhiêu sự thật, bao nhiêu chứng nhân của sự thật đã nhận về cho mình số phận bẽ bàng, chua cay, bạc bẽo. Sự thật đã không ngừng bị chính những người tự nhận là người của Thiên Chúa, người làm việc cho Thiên Chúa “nhân danh Thiên Chúa” để bưng bít, phong toả, cấm vận, bóp chết sự thật. Không thiếu những người tự xưng là chứng nhân của Thiên Chúa Sự Thật đã nhân danh Thiên Chúa để bôi bác, miệt thị, xỉ nhục, hành hạ những chứng nhân đích thực của Sự Thật, chỉ vì những người này đã không chịu a dua, đồng loã cắt xén, tô vẽ lại sự thật như họ muốn để phục vụ những ham hố ích kỷ.
Đức Kitô là Sự Thật, nên ai yêu mến và phục vụ sự thật, người ấy có Thiên Chúa. Cũng như Tình Yêu, Sự Thật là dấu hiệu để nhận ra ai là người của Thiên Chúa khi họ nhân danh Thiên Chúa. Người nhân danh Thiên Chúa để gạt bỏ sự thật, không đối diện sự thật, không trao đổi để cùng tìm ra sự thật, không lắng nghe sự thật, không tôn trọng sự thật chắc chắn không thể là người yêu mến sự thật; và nếu không yêu mến sự thật, họ cũng không yêu mến Thiên Chúa, Đấng “là Đường, là Sự Thật” (Ga 14,16). Họ như những người Biệt Phái giả hình, nói một đàng làm một nẻo, tâm địa thì độc ác mà bề ngoài thì chu chắm, nghiêm trang, thánh thiện. Sự thật là ánh sáng, ánh sáng chiếu sáng tâm tư bên trong cũng như soi sáng hành động, đời sống bên ngoài. Bóng tối không đi với ánh sáng, nên có khéo “nhân danh Thiên Chúa” đến cỡ nào, người không yêu mến sự thật cũng sẽ đánh rơi mặt nạ chứng nhân sự thật và gian dối sẽ lộ diện nguyên hình.

3.   Họ đã nhân danh Thiên Chúa Sự Sống để giết chết con người. Khi nhân danh Thiên Chúa hằng sống để lên án tử cho Đức Kitô, các vị trong Hội Đồng Kỳ Mục Do Thái đã cướp quyền định đoạt sống chết nơi con người của Thiên Chúa. Khi nhân danh tương lai “sống còn” của con cái Israel, nhân danh tiền đồ của dân riêng Thiên Chúa (Ga 18,4) để lấy Đức Kitô làm “dê tế thần”, các ông đã phủ nhận sự sống như giá trị tuyệt đối nơi con người, nơi mỗi người mà bất kỳ ai đều không có quyền xâm phạm. Các ông thừa biết: luật Môsê cấm giết người, nhưng người cần giết lúc này vì quyền lợi của phe nhóm các ông và lúc này đang có người cần giết để bảo đảm vị thế lãnh đạo của các ông là Đức Kitô, đối thủ đáng ngại và cần phải khử càng sớm càng tốt. Không tìm được lý do để truy tố, họ đành mượn đến danh Thiên Chúa hằng sống để giết chết Thiên Chúa vô tội, đành nại đến “sự sống giả sử” của miêu duệ còn xa trong tương lai để khẩn trương giết chết một người đang sống, đành nhân danh “máu giả tưởng” của con cháu để tức khắc làm đổ máu người ngay lành, công chính (Mt 27,25).
Sự sống đã bị con người nhân danh “Thiên Chúa hằng sống” lấy mất đi và bao lâu con người còn bị sự chết thống trị trái tim, còn để sự chết chiếm đóng tâm hồn, bấy lâu sự sống con người còn bị đe doạ, khủng bố.
Từ ngày 11 đến ngày 19 tháng ba năm 2012, nước Pháp rúng động vì anh Mohammed Merah, 23 tuổi, người Pháp gốc Algêri. Anh đã “nhân danh Đức Alla, thiên chúa của Hồi giáo” bắn chết bảy người, trong đó có em Myriam Monsonego 7 tuổi, hai em Arieh 4 tuổi, Gabriel 5 tuổi và cha của hai em là Jonathan Sandkler 30 tuổi, người Do Thái trước cổng trường Ozar Hatorah tại thành phố Toulouse, miền nam nước Pháp. Anh đã nhân danh đức Alla, thiên chúa của anh để giết những người không hề ân oán, hận thù hay quen biết anh. Anh giết họ một cách man rợ chưa từng thấy khi lạnh lùng quay phim những nạn nhân đang quằn quại đau đớn dưới mũi súng tàn nhẫn của anh với mục đích sẽ tung lên mạng những thước phim ngập máu để tự tuyên dương thành tích và khơi dậy, củng cố lòng hận thù đối với những dân tộc không đi theo tôn giáo “bạo lực” của anh. Một tín đồ nhân danh thiên chúa của mình để giết người vô tội chỉ có thể được gọi là một tên sát nhân điên cuồng, một quái vật hơn là một tín đồ chân chính, vì nếu có một thiên chúa khát máu, kêu gọi tín đồ giết người thì thiên chúa ấy sẽ chỉ là thiên chúa của hận thù và tên của thiên chúa ấy sẽ là Ác Quỷ. Nếu có một tôn giáo chủ trương dùng bạo lực để truyền giáo, dùng súng đạn để thống lĩnh, bá chủ, dùng khủng bố để tiêu diệt những người không theo mình thì tôn giáo ấy quả thực là tai hoạ kinh hoàng của nhân loại và tín đồ của tôn giáo ấy thực là những đồ tể khát máu.
Vì thế, không thể có người tín hữu nhân danh Đức Kitô để làm hại sự sống của mình và người khác. Không thể có người của Thiên Chúa nhân danh Chúa để quảng bá một chương trình “phò sự chết”, ủng hộ kế hoạch hủy diệt sự sống. Người theo Đức Kitô, Đấng là Sự Sống phải là người hết lòng phục vụ sự sống con người, cổ võ nền văn minh sự sống và làm tất cả những gì có thể làm để gìn giữ, bảo vệ, níu kéo sự sống con người. Người tông đồ của sự sống xác tín rằng: một mạng người mang giá trị của cả nhân loại và giá trị sự sống là một giá trị tuyệt đối, không có gì thay thế được.
Tuần Thánh có những “nhân danh” để thuận lợi vu oan, những “nhân danh” để nhẹ nhàng khép lại hồ sơ truy tìm sự thật, những “nhân danh” để mau chóng bức tử người vô tội. Đức Kitô là nạn nhân của những “nhân danh” ấy khi người ta đã say sưa nhân danh Thiên Chúa, công trình của Thiên Chúa, Lời Thiên Chúa, dân Chúa, nước Chúa để cố đẩy đưa Con Thiên Chúa lên thập tự. Ngài đã bị kết án đóng đinh và chết vì những nhân danh giả dối, mạo nhận của con người.
Ước gì, danh Đức Kitô, Thiên Chúa bị đóng đinh sẽ không bị chúng ta nhân danh để đóng đinh anh em, nhưng trong danh Ngài, tất cả chúng ta được giải phóng và giao hoà với Thiên Chúa và mọi người.