Trông
đợi là tương quan giữa con người với Thiên Chúa. Đó là con người trong điều kiện
hữu hạn của mình đã không có gì, không thấy gì, không biết gì, không hiểu gì khi đi vào tương quan với Thiên
Chúa vô biên, vô hạn. Cũng vì thế mà người ta có cớ lên án Kitô giáo là tôn giáo
trông ngóng huyền hoặc, đợi chờ viển vông, và người Kitô hữu là những người khờ
dại đã bỏ quên sống và hưởng thụ thế giới đời này, để điên cuồng trông đợi một
thế giới đời sau chưa chắc đã có.
Qủa
thực, khi đi tìm Thiên Chúa, và đi vào tương quan với Ngài, người môn đệ Đức Giêsu
trông đợi vào Lời Hứa của Thiên Chúa, như Ápraham đã trông đợi vào Lời Hứa của
Thiên Chúa Giavê : “Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm
nổi không... Dòng dõi của ngươi sẽ như thế đó!” (St 15,5) và tín thác lên đường đến nơi Thiên Chúa chỉ ;
như Môsê trông đợi vào Lời Hứa giải phóng dân ông khỏi ách nô lệ của Ai Cập :
“Ta đã thấy rõ ảnh khổ cực của dân ta bên Ai Cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu
than, vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải
thoát chúng khỏi tay người Ai Cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt
tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật…” (Xh 3,7-8), đã mạnh dạn đến
gặp Pharaô và các trưởng lão của Ítraen, mặc dù ăn nói ngong nghịu, lại chẳng
thần thế, ảnh hưởng ; như Đức Maria trông đợi vào Lời Hứa “Đấng Cứu Tinh sẽ
đến viếng thăm dân Người” đã qủa cảm trả lời sứ thần Gabrien : “Vâng, tôi đây
là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền” (Lc 1,38) ;
như các tông đồ trông đợi vào Lời Hứa :“Tên của anh em đã được ghi trên trời”
(Lc 10,20), “phần thưởng của anh em thật lớn lao” (Mt 5,12), và “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”
(Mt 28,20) đã liều lĩnh đến hy sinh mạng sống trong sứ vụ “đi khắp tứ phương
thiên hạ làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19).
Và
ròng rã hai mươi mốt thế kỷ, hàng hàng lớp lớp những người đi theo Đức Giêsu đã
sống cùng một lòng trông đợi này, khi triệt để tín thác vào Lời Hứa của Thiên
Chúa : “Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên
trời thật lớn lao” (Mt 5,2-12)
Sở
dĩ Đức Giêsu đã mời gọi những ai đi theo Ngài sống niềm Hy Vọng, vì Thiên Chúa
mà chúng ta được đi vào trong tương quan với Ngài không phải là con người hữu hạn
như chúng ta, lại càng không phải báu vật vô tri, vô cảm chúng ta có thể chiếm đọat
như sở hữu một món đồ, nhưng Thiên Chúa là Nguồn mọi sự Thánh Thiện, sự thánh
thiện mà chúng ta được kêu gọi đạt tới, sự thánh thiện mà Thiên Chúa ban cho chúng
ta ân huệ được tham dự vào như giọt nước được tan biến vào đại dương bao la.
Chính
vì thế, khi một tôn giáo mang tham vọng muốn biết hết Thiên Chúa của mình, tôn
giáo ấy sẽ thay thế Thiên Chúa bằng cơ chế cực kỳ độc đóan, độc tài do những
con người có quyền trong tôn giáo ấy tạo ra ; khi một tín đồ tự phụ cho rằng
mình sở hữu trọn vẹn Thiên Chúa, người nghĩ mình có đức tin “chuyển núi dời non” ấy sẽ
thay thế Thiên Chúa họ tôn thờ bằng hình ảnh một Thiên Chúa do chính họ vẽ ra,
và bằng mọi giá bảo vệ hình ảnh ấy như một sở hữu bất biến và bất khả chuyển nhượng ;
khi một người đi tu lầm tưởng rằng mình hiểu rõ Thiên Chúa mồn một như hiểu một
bài toán, họ sẽ thay thế Thiên Chúa vô hạn bằng sáng tạo môt thiên chúa theo
khuôn mẫu có giới hạn của loài người. Và như thế, Thiên Chúa sẽ không còn là
Thiên Chúa như Ngài là nữa, nhưng là thiên chúa như con người muốn, theo khuôn
mẫu con người đúc tạc, có dáng dấp, dung mạo, đam mê, tính tình theo sáng kiến
phàm tục của con người vẽ ra.
Trái
ngược với hiện tượng vừa kể, người môn đệ được Đức Giêsu mời gọi sống trông đợi :
sống trông đợi trong một tôn giáo trông đợi khi cầu xin và ước nguyện cho “Danh
Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”, sống
trông đợi với một đức tin trông đợi khi “loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng
Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”.
Một
Giáo Hội trông đợi, khi không tự làm mình khô héo, cằn cỗi vì chỉ chú tâm xây dựng
pháo đài “cơ chế”, một nhà thần học trông đợi Thiên Chúa khi không giam mình
trong giáo thuyết, một Kitô hữu trông đợi, khi không tự làm mình nghèo nàn vì
chỉ tin vào kinh nghiệm của riêng mình, một tâm hồn trông đợi khi luôn mở rộng
cửa lòng để đón nhận Ơn Thánh Thần, hơn kiêu hãnh, ngạo mạn lấy làm đủ với những
gì mình có.
Tuy
thế, trông đợi không là trông ngóng mông lung, đợi chờ vô vọng, nhưng là trông
ngóng một Thiên Chúa hiện hữu đích thực, đợi chờ một Đấng không chỉ dựng nên trời
đất muôn vật, muôn loài, mà còn làm chủ lịch sử của từng cá nhân cũng như của
toàn thể nhân loại, nên Lời Hứa của Đấng Toàn Năng ấy tự nó đã là bảo chứng chắc
chắn ; niềm hy vọng đặt vào Đấng Hằng Hữu ấy tự nó đã là sự thật vĩnh cửu,
và đó chính là mấu chốt, nền tảng của niềm tin Kitô.
Từ
nền tảng vững chắc là Thiên Chúa toàn năng và là Đấng trung tín, không bao giờ
lừa dối ai, mà cuộc sống trông đợi ở Lời Hứa trở thành hành động hiện thực Lời
Hứa, khao khát hy vọng ở Lời Hứa được biến thành hạnh phúc đạt được Lời Hứa, bởi
khi sống niềm trông đợi ở Lời Hứa, chúng ta đã sống niềm an ủi của chính Lời Hứa
đang theo thời gian hình thành, và khi khát khao hy vọng ở Lời Hứa, chúng ta được
nếm sự ngọt ngào của Lời Hứa. Nói cách khác, trông đợi trong đức tin của người
Kitô hữu là cảm nghiệm Lời Hứa đang được thực hiện ngay trong giây phút hiện tại,
và sống niềm hy vọng vào Lời Hứa là dự phần ngay ở đây và lúc này vào niềm vui
của Lời Thiên Chúa hứa.
Thực
vậy, Giáo Hội là Mùa Vọng không bao giờ kết thúc cho đến ngày Chúa trở lại
trong vinh quang, là mùa trông đợi “cho tới khi Chúa đến” và muà vọng của Giáo
Hội thật rõ nét nơi hình ảnh người lữ hành, hình ảnh mà Đức Giêsu đã chọn cho
Giáo Hội của Ngài khi sai Giáo Hội ra đi loan báo Tin Mừng cho muôn dân :
một Giáo Hội nghèo khó, khiêm nhu, tỉnh thức, sẵn sàng với hành trang giản dị, đơn
sơ, với trái tim yêu thương, tin tưởng, phó thác, với trí khôn hướng thượng, rộng
mở, tích cực.
Và
như thế, người lữ hành của Thiên Chúa sẽ phấn khởi đi trên hành trình Mùa Vọng,
trên những con đường Trông Đợi Lời Hứa với ơn của Chúa Thánh Thần, Đấng là làn
gió Canh Tân sẽ không ngừng thánh hoá, đổi mới các tâm hồn người tín thác vào Lời
Thiên Chúa hứa, và hướng dẫn từng bước chân của Giáo Hội lữ hành.
Jorathe
Nắng Tím