Tương Quan giữa Đức Giêsu Thiên Chúa và Con Người
Không
ai sống mà không tin, và niềm tin đầu tiên chính là tin mình được sinh ra bởi
cha mẹ, dù cha mẹ mất rất sớm, có thể khi ta vừa sinh ra, chưa một lần được thấy
cha mẹ; tin mình có linh hồn, có tình cảm, có ước mơ, có thao thức dù không biết
linh hồn gầy béo thế nào, tình cảm đen trắng, cao thấp ra sao, ước mơ, thao thức bao nhiêu thước dài mà ngày đêm, quanh năm bốn
mùa bay bổng, vi vu.
Suốt
cuộc sống, có rất nhiều người ta tin, như tin người tình với tình yêu muôn thuở,
tin bạn thân với tình tri kỷ tri âm, tin người đã cứu mạng với lòng tốt không
thể so sánh, tin ân nhân với trái tim qủang đại đã vực dậy đời ta tưởng đã trôi
theo dòng nước lũ, tin nhà khoa học với những phát minh cho cuộc sống ngày càng
tiện nghi, thoải mái. Bên cạnh những người ta tin là nhiều điều ta tin, như tin
có mặt trăng, mà phi hành gia Amstrong là người đầu tiên đã đặt chân đến, tin
virus Corona có sức tàn phá dữ dội, tin bom hạt nhân có thể tiêu diệt thế giới loài
người.
Những
người ta tin, điều ta tin thì nhiều vô số. Những con người, sự kiện, sự việc được
tin, đáng tin, không thể không tin ấy có thể ta đã thoáng gặp, thoáng thấy,
nhưng cũng có những người, những sự việc ta không thấy, không gặp, chỉ được
nghe, nhưng đáng tin và ta đã tin.
Sở
dĩ những con người và sự việc ấy đáng tin và ta đã tin, vì ta tin vào người nói
với ta về những con người ta chưa gặp và kể cho ta những sự kiện, sự việc ta
không biết. Ta tin họ, vì họ là những
người đáng tin, khả tín; ta tin họ vì họ có uy tín, không nói dối, không
bóp méo sự thật, lại không lợi dụng nhưng muốn thông tri sự thật cho ta; ta tin
họ, vì họ giới thiệu những con người vắng mặt, và những sự việc ta không biết với
lòng tốt và tình yêu dành cho ta.
Tóm
lại, vì tin là đón nhận sự thật về những con người, sự việc mà ta không gặp,
không thấy, hoặc chỉ biết rất ít, nên người giới thiệu, người “kể lại” giữ một
vai trò quan trọng mang tính quyết định, bởi nhờ họ, qua họ, vì họ mà ta tin
người ấy có thật, việc ấy là việc thật.
Đi
xa hơn, và vượt lên cao là niềm tin siêu nhiên, khi con người đặt niềm tin của
mình vào Thiên Chúa. Niềm tin ấy là nền tảng của tín ngưỡng, tôn giáo, bởi
không có niềm tin, còn gọi là đức tin, sẽ không có tín ngưỡng, tôn giáo, vì
không có đức tin, chúng ta ngưỡng mộ ai, tin tưởng Đấng nào; không tin, nhịp cầu
nào nối kết Thiên Chúa là Hữu Thể thiêng liêng, vô hình với con người là hữu thể
“hữu hình”, được định vị trong một không gian và thời gian nhất định, vì tôn
giáo là tương quan nối kết con người với
Thiên Chúa.
Qủa
thực, giữa con người và Thiên Chúa không có gì nối kết được, ngoài đức tin; giữa
Đấng Vô Hình và con người hữu hình không có gì liên lạc được, ngoài đức tin; giữa
Đấng Chủ Tạo toàn năng và con người là thụ tạo yếu đuối không có gì thông tri,
thông cảm được, ngoài đức tin; giữa Thiên Chúa là Chân Thiện Mỹ tuyệt đối và
con người bất toàn trong mọi sự không có gì thông ban được, ngoài đức tin.
Chỉ
với đức tin, khi con người tin Thiên Chúa là Đấng tạo dựng và mình là thụ tạo,
thì tương quan Chủ Tạo - Thụ Tạo giữa Thiên Chúa với con người mới được thiết lập;
chỉ với đức tin, khi con người tin Thiên Chúa hiện hữu và hoạt động trong lịch
sử con người, thì tương quan Thiên Chúa là “Cội Nguồn và Cùng Đích của con người”
mới hiện thực, đời sống con người mới có lý do, và cuộc sống con người mới có ý
nghiã; chỉ với đức tin, khi con người tin Thiên Chúa là Cha, thì tương quan “Cha
- Con” giữa Thiên Chúa với con người mới được thực sự hình thành, bởi đức tin
là hành động hoàn toàn tự do của mỗi người, mặc dù tự thân là ơn của Thiên
Chúa, nên tương quan giữa Thiên Chúa và mỗi người sẽ được thực hiện hay không
hoàn toàn tùy thuộc vào đức tin của mỗi người.
Bởi
đức tin là con đường duy nhất cho con người tìm gặp Thiên Chúa, và để Thiên
Chúa đến được với con người, nên chối bỏ đức tin, con người không còn đường nào
khác để đến với Thiên Chúa; bởi đức tin là phương tiện duy nhất cho phép con
ngươi chạm vào chính Thiên Chúa, nên thiếu đức tin, con người vô phương đạt đến
Thiên Chúa là cùng đích cuộc đời; bởi đức tin là tiếng nói, ngôn ngữ duy nhất
con người nói được với Thiên Chúa, nên không có đức tin, con người và Thiên
Chúa không thể nghe được tiếng nhau; bởi đức tin là máng thông chuyển sự sống của
Thiên Chúa cho con người, nên phủ nhận đức tin, con người không thể đón nhận sức
sống siêu nhiên của Thiên Chúa; bởi đức tin là Giao Ước giữa Thiên Chúa với con
người, nên loại bỏ đức tin, con người không hưởng được hạnh phúc của Lời Thiên
Chúa hứa.
Vâng,
niềm tin cần thiết, vì kinh nghiệm cho thấy: nỗi khổ quay quắt của con người là
khi không tin ai, không tin sự gì. Nỗi
khổ ấy còn nhức nhối, tàn phá hơn nhiều lần khi con người sống mà không có bất
cứ điểm tựa đức tin vào một Đấng thiêng liêng nào, bởi con người có hồn có
xác, nên ngoài nhu cầu vật chất của thân xác, còn nhu cầu thiêng liêng của tinh
thần, linh hồn. Nhu cầu thiêng liêng ấy cũng quan trọng như nhu cầu vật chất mà
chỉ đức tin mói có thể đáp ứng, làm cho toại nguyện, thoả lòng. Đức tin làm toại
nguyện khi cho con người hiểu được lý do sự có mặt của mình, ý nghiã cuộc sống,
cùng đích cuộc đời khi đức tin “trả lời” cho con người những vấn nạn gay gắt và
căng thẳng liên quan đến thiện ác, công bình -bất công, đau khổ - hạnh phúc, sự
sống - sự chết, đời này - đời sau. Và vì là tương quan giữa con người với Thiên
Chúa, nên đức tin mở lối, khai phóng toàn thể những bế tắc của cuộc sống con
người trên chính nền tảng của tương quan thánh thiện và tuyệt vời này.
Nhưng
tương quan ấy sẽ chỉ có thể khởi sự thành hình, nếu con người tin Thiên Chúa hiện
hữu.
1. Thiên
Chúa hiện hữu:
Người
trẻ của thời đại ngày càng bị lôi cuốn vào trào lưu không tin có Thiên Chúa khi
lớn tiếng nói với nhau “Không có Thiên Chúa hoặc Thiên Chúa chết rồi”. Khi nói
như thế, không phải người trẻ không tin, vì tận thâm tâm, họ không nghĩ như vậy,
bởi từ
chối, loại bỏ Thiên Chúa thì người ta có thể làm, nhưng không ai có thể chứng minh: không có Thiên
Chúa, vì tất cả các thụ tạo đều nói lên vinh quang của Thiên Chúa; mọi
loài, mọi vật trong vũ trụ đều mang dấu ấn thụ tạo “được tạo dựng” bởi một
Thiên Chúa, “Đấng tạo thành trời đất muôn vật hữu hình và vô hình”.
Một
số nhà khoa học vô thần ngang nhiên tuyên bố: tôi không chạm được Thiên Chúa
khi bay lên các hành tinh ngoài trái đất, hoặc tôi không thấy Thiên Chúa sau lớp
kính hiển vi trong phòng thí nghiệm, nhưng bên cạnh họ, đa số các nhà khoa học đều
chân nhận có Thiên Chúa, và cùng kết luận: chứng minh Thiên Chúa không hiện
hữu là một việc làm bất khả thi.
Sở
dĩ nhà khoa học vô thần tuyên bố “không chạm được, không thấy được” Thiên Chúa,
vì họ đã muốn nhìn thấy Thiên Chúa bằng
đôi mắt con người, đụng chạm vào Thiên Chúa bằng bàn tay con người của họ, mà quên
rằng Thiên Chúa thiêng liêng, và mắt con người, tay con người không thể nhìn thấy,
chạm vào. Và để được thấy Ngài, chạm
vào Ngài, cảm nghiệm Ngài, chỉ có đức tin là ơn Ngài ban với sự cộng tác của
bản thân mỗi người, bao lâu con người còn bị lệ thuộc vật chất trong cuộc sống
trần gian.
Thực
ra, không ai là vô thần đúng nghiã, vì chính cấu trúc sinh học, tâm lý của con
người cũng không ngừng tôn vinh Đấng đã tạo dựng nên nó. Từ những tế bào cực nhỏ,
nhưng cực tinh vi trong cơ thể đến những thao thức, khắc khoải, ước mơ bay xa
ngút ngàn, vượt không gian thời gian đến vô tận, những đau khổ, hạnh phúc như
chạm đến cung lòng Tuyệt Đối đã nói lên Thiên Chúa là Đấng vô cùng toàn năng; từ
sinh hoạt cực phong phú của siêu vi khuẩn đến kỷ luật tuần hoàn không gì có thể
nề nếp, quy củ, trật tự hơn của các vì sao trong giải ngân hà vô cùng vĩ đại
không ngừng tỏ cho con người sự có mặt rất
quan tâm của Thiên Chúa đối với thụ tạo của Ngài, như lời Thánh Vịnh: “Trời
xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người
làm. Ngày qua mách bảo cho ngày tới, đêm này kể lại với đêm kia” (Tv 18,2-3), bởi
“Công trình Ngài, lậy Chúa, qủa thiên hình vạn trang! Chúa hoàn thành tất cả thật
khôn ngoan” (Tv 103,24).
Không
ai là vô thần trong đời sống, bởi không ai tự mình làm nên tất cả, ngay cả những
việc tưởng rất dễ làm, vì tự bản chất, con người vốn bất toàn, yếu đuối, cần dựa
vào Đấng Chủ Tạo toàn năng, toàn mỹ, toàn thiện và yêu thương để được tồn tại
và hạnh phúc; không ai bền vững thiên thu mà không có lúc khốn khó, ngặt nghèo,
không cứu nổi mạng mình “khỏi môi miệng điêu ngoa, tấc lưỡi phỉnh phờ” (Tv
119,2) của phường tự mãn, của bọn kiêu căng và mũi tên, hòn đạn của ác nhân, kẻ
thù; không ai trăm năm vững như núi đá,bàn thạch, mà không có ngày “vết thương
nặng mùi rữa nát…, thân lom khom, kiệt sức, rã rời”, rồi quỵ ngã, “nỗi khổ đau
hằng canh cánh bên lòng” (Tv 37,6.7.18), vì con người mong manh như hoa sớm nở
tối tàn, và mỏng dòn như cây sậy trước gió, nên luôn “cần ơn phù trợ đến từ
Thiên Chúa” (Tv 120,2) để được cứu chữa và giải thoát.
Cũng
không ai là vô thần cực đoan và triệt để, vì không có lý để mãi triệt để, cực
đoan phủ nhận sự có mặt của Thiên Chúa trong chính tác phẩm tạo dựng của Ngài,
cũng như không thể xóa dấu tích tư duy và cảm xúc của tác giả trong tác phẩm của
ông, bởi bản tình ca nói lên tình cảm của nhạc sĩ, giọng ca truyền cảm làm rung
động người nghe nói lên khả năng diễn đạt điêu luyện của ca sĩ, nét sống động của
bức tranh nói lên nghệ thuật tinh xảo và tâm hồn thanh cao, lãng mạn của họa
sĩ. Chẳng qua chỉ vì ganh ghét, đố kị, kiêu căng, thiếu lương thiện và công
bình mà phần đông chúng ta đã cố tình phủ nhận tác giả và giá trị của tác giả
trong tác phẩm của họ, như những người vô thần phủ nhận Thiên Chúa trong kỳ
công tạo dựng của Ngài.
Do
đó, phải dè dặt khi nghe người trẻ to tiếng từ chối Thiên Chúa, hùng hổ xuống
đường biểu tình “khai tử Thiên Chúa”. Thực ra, họ “không biết việc họ làm”, vì
tuổi trẻ bồng bột, dễ nghe lời dụ dỗ, dễ bị lôi cuốn vào những phong trào đang
lên, những cao trào sôi nổi, nhất là dễ chạy theo những thần tượng nhất thời,
mà chính họ cũng chẳng biết đường hướng, nội dung, mục tiêu của những cao trào,
phong trào, làn sóng thời thượng đó.
Ngoài
ra, khi mạnh miệng đả đảo Thiên Chúa, người trẻ cũng muốn tỏ ra mình là người
có suy tư, có phản tỉnh, có phán đoán, nhất là có quan điểm, và lập trường
riêng tư, độc lập. Đây là tình trạng thường gặp trong những môi trường sống mà ở
đó người trẻ đơn độc và mang mặc cảm bị bỏ rơi, coi thường, và là thiểu số “thấp
cổ bé miệng”. Ở vào hoàn cảnh này, người trẻ muốn chứng tỏ “cái tôi đang có mặt,
cái tôi hiểu biết, cái tôi dũng cảm, cái tôi dám nghĩ dám làm” của mình bằng
phê bình, phản biện, đặt lại vấn đề, đi ngược những gì đa số đang đi, làm trái
những gì số đông đang làm. Và đức tin, tôn giáo thường được chọn làm đối tượng,
vì khi chối bỏ đức tin, đi ngược đức tin, làm trái đức tin, người trẻ sẽ không
bị ảnh hưởng gì, trong khi làm trái luật pháp, đi ngược quy định dân sự, người
trẻ không tránh được hậu qủa tai hại khó lường từ xã hội, nhất là trong một xã
hội không có chỗ cho Thiên Chúa.
Vì
thế, chúng ta cần lắng nghe để hiểu người trẻ nhiều hơn, rõ hơn, khi họ tự nhận
mình là vô thần, vì phải biết rõ động cơ nào đã thúc đẩy họ vô thần, chúng ta mới
có thể xác định họ vô thần “thật” hay vô thần “giả”, vô thần với quyết tâm hay
vô thần hời hợt, chớp nhoáng, nhất thời, vô thần với lựa chọn nghiêm túc hay vô
thần thời cơ, chiến thuật.
Vô
thần thời cơ, chiến thuật, khi biết có Thiên Chúa, tin Thiên Chúa, nhưng không
muốn Thiên Chúa có mặt lúc này, khi những tham vọng bất chính cần đến sự vắng mặt
của Thiên Chúa, khi những tính toán bất công, hại người cần Thiên Chúa “bị đóng
đinh yên vị” trên Thánh Giá, để Thiên Chúa không làm hỏng kế hoạch, khi dục vọng,
tội lỗi yêu cầu Thiên Chúa không được can dự, khi chủ nghiã duy vật không muốn cái nhìn “đe dọa, trừng phạt” của
Thiên Chúa trước cao trào thực dụng, hưởng thụ, khi con người cần phạm tội và
không muốn mang mặc cảm với Thiên Chúa khi phạm tội, như Evà đã lén lút với Rắn
Satan, mà không dám gặp mặt Thiên Chúa khi ăn trái cây Thiên Chúa cấm.
Người
trẻ cũng có thể “vô thần hời hợt, chớp nhoáng, nhất thời, và giả hiệu” khi tận
thâm tâm biết có Thiên Chúa, đồng thời biết mình không thể bình an nếu loại bỏ
Thiên Chúa, không thể hạnh phúc nếu xóa tên Thiên Chúa trong cuộc đời, nhưng rất
tiếc, có những lúc với họ Thiên Chúa trở nên nặng nề, phiền toái, phức tạp, khó
gần, khó sống, “cản mũi kỳ đà”, và gần như trở thành “đối phương, đối thủ”, vì
Luật Ngài nghiêm cấm, ý Ngài không cho phép, đường lối Ngài cản trở toan tính
đang đeo đuổi, nên chỉ còn chọn lựa cuối cùng là “tạm thời” vô thần, từ chối
Ngài trong chốc lát, khai tử Ngài một khoảnh khắc cần thiết vừa đủ để thực hiện
ý đồ sai trái.
Sau
hết là trường hợp tự cho mình là vô thần, và bị người khác coi là vô thần đang
khi thao thức, băn khoăn đi tìm Thiên Chúa. Họ là những người trẻ thiện tâm, thực
sự muốn tìm Thiên Chúa, và đang nỗ lực “truy tìm” Ngài bằng khả năng con người
của họ. Và theo họ, để làm công việc này, trước hết phải loại bỏ, tẩy sạch tất
cả những gì là Thiên Chúa, dính dáng đến Thiên Chúa chẳng may đã có trong họ, để
cuộc truy tìm có giá trị theo ý họ, vì không muốn niềm tin chịu ảnh hưởng từ
truyền thống gia đình, giáo lý, cơ cấu tôn giáo đã có sẵn. Họ mong đợi một cuộc
khám phá Thiên Chúa đích thực tinh khiết do chính họ, mà không do bất cứ ai, bất
cứ truyền thống nào, bởi đức tin với họ là khám phá riêng tư, hoàn toàn độc lập,
tự họ làm được mà không cần đến ơn Chúa.
Tóm
lại, phần đông chúng ta, đặc biệt người trẻ không đích danh, đích thực là người
vô thần, nhưng hầu hết chỉ vô thần vì một động lực trái với thánh ý Thiên Chúa,
chỉ vô thần vì muốn thực hiện những toan tính, ý đồ ngược lại Giới Luật yêu
thương của Chúa, chỉ vô thần vì muốn “thoải mái tối đa” dục vọng xác thịt, muốn
đi theo khuynh hướng xấu, bản năng thấp hèn không phù hợp với đường lối, giáo
huấn của Thiên Chúa, chỉ vô thần vì hiểu sai ý nghiã của đức tin.
Và
vì không được hướng dẫn đúng lúc, hoặc không cố gắng vượt qua, không can đảm chối
từ điều xấu, bỏ đường gian ác để chọn Thiên Chúa, đồng thời vì không tìm được giải
pháp thương lượng, “dung hoà” giữa ý muốn
thánh thiện của Thiên Chúa và dục vọng bất chính của mình, mà chúng ta đành đầu
hàng tội lỗi bằng chiêu bài nhận mình là vô thần, không tin Thiên Chúa để dễ bề
ru ngủ lương tâm, và tự lừa dối trong an bình giả tạo.
Chia
sẻ điều trên để chúng ta đừng vội vã lên án người trẻ khi thấy họ lơ là với
sinh hoạt đức tin, đừng nóng ruột tẩy chay, trừng phạt người trẻ khi họ không mặn
mà với đời sống tâm linh, đừng khắc nghiệt “truy sát” người trẻ khi nghe họ phản
biện, bất đồng quan điểm trong lãnh vực giáo lý đức tin, đừng cứng nhắc phạt vạ
người trẻ khi thấy họ lừng khừng, dửng dưng, hờ hững với Giáo Hội, nhưng cần
giúp họ từng ngày thiết lập tương quan với Thiên Chúa, bởi đức tin không là kiến
thức, cũng không là kho tàng bất di bất dịch, nhưng trước hết và trên hết là
TƯƠNG QUAN sống động giữa mỗi người với Thiên Chúa.
2.
Con người đi vào tương
quan với Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô -Thiên Chúa làm người:
Một
khi đã nhận Thiên Chúa hiện hữu, con người có điểm mốc để định vị mình khi tham
chiếu với Thiên Chúa. Từ đây, con người sẽ nhận ra mình là ai, tại sao mình có
mặt làm người, là người trong cuộc đời? Con người cũng sẽ quy chiếu vào điểm tựa
đức tin là Thiên Chúa để nhận ra tương quan nào là tương quan giữa mình với
Thiên Chúa, tương quan nào giữa mình với người chung quanh, bởi đức tin không
trơ trọi, chơ vơ, bất động, nhưng đức tin nối kết, liên kết, tạo tương quan
thân tình, làm nên tương quan mật thiết giữa Thiên Chúa và con người đến độ
con người được thông dự thiên tính của Thiên Chúa và Thiên Chúa mang lấy nhân
tính của con người.
Mầu
nhiệm đức tin Kitô giáo chính là mầu nhiệm Thiên Chúa trở nên con người, để con
người được biến đổi thành đời sống của Thiên Chúa, như thánh Phaolô đã khẳng định:
“Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà chính Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Vì
thế, đức tin luôn nhắm đến tương quan mật thiết giữa Thiên Chúa và con người,
và tương quan ấy không vu vơ, mơ hồ, huyền
ảo, không thể thực hiện, nhưng là tương quan cụ thể trong Đức Giêsu, người
làng Nadarét đã bị đóng đinh; là tương quan sống động trong Đức Giêsu, Đấng đã
sống lại từ cõi chết, đã hiện ra với các môn đệ và ban bình an cho các ông,
cũng là Đấng đã xin Chúa Cha ban Thánh Thần Chân Lý, Thánh ThầnTình yêu, Thánh
Thần Sự Sống đến trên các ông và Giáo Hội; là tương quan “hiệp nhất, nên một” trong
Đức Giêsu khi ăn thịt và uống máu Ngài; là tương quan của Giao Ước cứu độ trong
hy tế Thánh Giá của Đức Giêsu “cho mọi người được tha tội”.
Là
tương quan với Thiên Chúa trong Đức Giêsu, đức tin không bay bổng, vô định,
nhưng ở Đức Giêsu, nơi Đức Giêsu, khi tất cả quy hướng về Ngài, tập trung ở
Ngài, quây quanh quanh Ngài. Đó là lý do toàn bộ Cựu Ước đều chuẩn bị cho ngày
đến trong thế gian của Đức Giêsu trong Tân Ước, Israel được tuyển chọn làm dân
riêng để dọn đường cho Đức Giêsu đến, các ngôn sứ và toàn bộ lịch sử của dân
riêng Thiên Chúa đều quy chiếu vào một mình Đức Giêsu, mà không là ai khác, bởi
Đức Giêsu là Thiên Chúa, đến từ Thiên Chúa. Ngài không phải ngôn sứ như các
ngôn sứ khác, bởi các ngôn sứ là con người được Thiên Chúa chọn để nói điều
Thiên Chúa muốn, đang khi Đức là Thiên Chúa, đến từ Thiên Chúa và mặc khải cho
nhân loại chính Thiên Chúa.
Do
đó, loại bỏ Đức Giêsu trong đức tin tức loại bỏ tương quan giữa Thiên Chúa và
con người, là giá trị và ý nghiã của đức tin; đẩy xa Đức Giêsu khỏi tương quan
giữa Thiên Chúa và con người chính là hủy bỏ tương quan ấy, bởi tương quan giữa Thiên Chúa với con người “chỉ
là” và “chính là” tương quan giữa con người với Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người.
Tin
Mừng mặc khải cho chúng ta chân lý quan trọng này: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên
Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta
biết” (Ga 1,18).
Trong
thực tế, có rất nhiều người lầm tưởng Đức Giêsu chỉ là ngôn sứ, tức con người,
mà không cùng lúc là Thiên Chúa. Chính vì từ chối thiên tính, mà Đức Giêsu bị
coi là thứ yếu, và người ta bay bổng mơ hồ đi tìm Thiên Chúa trong mây trời, mường
tượng Thiên Chúa qua các hình ảnh huyền hoặc, li kỳ, vẽ vời Thiên Chúa thành những
ý niệm, lý thuyết thuần chất con người.
Vì
thế không lạ gì khi người ta bảo Thiên Chúa ác độc, trong khi Thiên Chúa trong
Đức Giêsu là người cha nhân hậu, giầu lòng xót thương và hay chạnh lòng (x. Lc
15); người ta quy tội Thiên Chúa là ông chủ hà khắc, tham lam, trong khi Thiên
Chúa của Đức Giêsu là ông chủ tốt lành, quảng đại đã nhận vào làm vườn nho bất
cứ ai, và trả lương hậu hĩnh cho mọi người đến sớm cũng như đến muộn (x. Mt 20,1-15);
người ta trách móc Thiên Chúa chỉ rình rập để trừng phạt, trong khi Thiên Chúa
của Đức Giêsu đã thương xót tha cho người mắc nợ Ngài món nợ rất lớn, và chỉ đòi
một điều kiện để được mãi mãi thương xót, đó là biết xót thương anh em đang mắc
nợ mình (x. Mt 18,23-35).
Và
điều người ta thi nhau chỉ trích Thiên Chúa nặng nề hơn cả là bỏ bê con người,
không quan tâm đến thụ tạo do Ngài dựng nên khi để đau khổ, sự chết hoành hành,
làm khổ con người, trong khi Thiên Chúa trong Đức Giêsu đã không ngừng kêu gọi
con người hãy tin tưởng ở tình yêu quan phòng của Ngài vì con người cao qúy hơn
hoa huệ chim trời (x. Mt 6,25-34); không ngừng chia sẻ, cảm thông những đau khổ
và chữa lành bệnh tật của con người (x. Mt 8,16-17); không ngại gần gũi người tội
lỗi (x. Mt 8,10-13); không ngớt lên tiếng bênh vực, ủi an những người bị miệt
thị, bị đàn áp, bóc lột, vất vả, cơ cùng (x. Mt 11,28-30). Ngài còn khóc nỗi
đau mất con của người đàn bà góa bụa và cho con trai duy nhất của bà sống lại
trên đường đưa xác ra nghiã trang (Lc 7,11-17); khóc nỗi đau mất em trai của chị
em Mátta, Maria khi gọi Ladarô từ cõi chết sống lại sau bốn ngày chôn kín trong
mộ phần (x. Ga 11,33-44), và khóc cả nỗi đau “bị Chúa Cha bỏ rơi” của chính
mình trên Thánh Giá giờ hấp hối, khi rướn mình thốt lên “Lậy Thiên Chúa, lậy Thiên
Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27,46).
Vâng,
Thiên Chúa trong Đức Giêsu không là thiên chúa của óc tưởng tượng nơi người làm
nghệ thuật, cũng không là thiên chúa của ý niệm, lý thuyết ở triết gia, nhà tư
tưởng, càng không là thiên chúa của kỹ năng, kỹ thuật, phát minh ở nhà khoa học,
hoặc thiên chúa độc đoán, độc ác của lãnh tụ và chế độ độc tài phi nhân nào đó,
nhưng là Thiên Chúa giầu lòng thương xót, Đấng Cứu Độ đã sẵn sàng hiến mạng sống
để chuộc tội loài người (x. Ga 3,17), Người Cha nhân hậu (x. Lc 15,11-32), Mục
Tử nhân lành (x. Ga 10,1-18).
Bởi
nhiều người không tìm gặp Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, không lắng nghe lời Thiên
Chúa qua miệng Đức Giêsu, không chiêm ngắm Thiên Chúa trong Đức Giêsu, không
tin và đón nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa, nên đức tin của họ trống rỗng, vu vơ,
huyền hoặc, vì không đặt để ở Đức Giêsu, con người Thiên Chúa sống động, cụ thể,
thiết thực, có mặt trong lịch sử của nhân loại, và vì thế, đức tin ấy không là
đức tin đích thực, vì không thiết lập được tương quan với Thiên Chúa, là đòi hỏi
của đức tin, mà đòi hỏi ấy chính là tin Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa và ở Ngài,
duy nhất một mình Ngài, đức tin đem lại Tương Quan mật thiết giữa Thiên Chúa và
con người, tức giữa Đức Giêsu và mỗi người.
Với
người trẻ hôm nay, đức tin là tin vào Đức Giêsu đã có mặt trong lịch sử nhân loại,
Đấng đã mặc khải Thiên Chúa vì Ngài là Thiên Chúa, từ Thiên Chúa mà đến, nên đi
vào tương quan với Đức Giêsu chính là đi vào tương quan với Thiên Chúa, như Đức
Giêsu đã khẳng định: “không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga
14,6), và “ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9), vì “Thầy trong Chúa Cha,
và Chúa Cha ở trong Thầy”, để ai ở trong Đức Giêsu cũng ở trong Thiên Chúa, ai
nên một với Đức Giêsu cũng được nên một với Thiên Chúa (x. Ga 17,21-22).
Với
người trẻ hôm nay, tin là tin vào Đức Giêsu sống lại, như thánh tông đồ trưởng
Phêrô đã qủa quyết: “Nhờ Người, anh em tin vào Thiên Chúa, Đấng cho Người trỗi
dậy từ cõi chết, và ban cho Người được vinh hiển, để anh em đặt niềm tin và hy
vọng vào Thiên Chúa” (1P,21).
Và
trong suốt hành trình đức tin, người trẻ luôn xác tín: “Phần chúng tôi, chúng
tôi đã chiêm ngưỡng và làm chứng rằng: Chúa Cha đã sai Con của Người đến làm Đấng
cứu độ thế gian. Hễ ai tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì Thiên Chúa ở
lại trong người ấy, và người ấy ở lại trong Thiên Chúa” (1 Ga 4,14-15).
Jorathe
Nắng Tím