Tìm kiếm Blog này

Thứ Bảy, 22 tháng 6, 2019

GIÁO ĐIỂM TIN MỪNG

https://www.youtube.com/watch?v=otX_ljXsNiA
Tháng Sáu có lễ Thánh Tâm Chúa, cũng là tháng Giáo Hội dành đặc biệt để kêu gọi tín hữu tôn sùng, đền tạ Thánh Tâm Chúa làm tôi không khỏi nghĩ đến Giáo Điểm Tin Mừng ở Nhà Bè, thuộc tổng giáo phận Sàigòn, nơi mà mỗi ngày có hàng ngàn người lương giáo cùng qùy cầu nguyện với Thánh Tâm đầy lòng  thương xót.
Tôi còn nhớ, một ngày thứ Sáu đầu tháng, giữa trưa hè, dưới cái nắng chói chan, nóng bức, oi ả của Sàigòn, tôi đã đến Giáo Điểm, vừa để xưng tội, vừa tò mò xem cha Long giảng dạy, tổ chức Giáo Điểm thế nào … mà càng ngày càng nhiều người thương, ghét, ủng hộ, chống đối qúa!
 Hơn 6 tiếng đồng hồ ở Giáo Điểm, tôi đã thấy từng đoàn người lũ lượt kéo nhau đến. Họ thuộc đủ thành phần từ nhiều vùng miền được nhận ra qua giọng nói. Giáo điểm được tổ chức sạch sẽ, trật tự, phục vụ hết mức có thể, từ cổng vào đến cung thánh, từ khu bán ảnh tượng, đồ lưu niệm, thức ăn, nước uống, chỗ giữ xe miễn phí đến khu vệ sinh, chỗ nào cũng được quét dọn liên tục. Khách hành hương rất ý thức việc  giữ vệ sinh chung và ai nấy rạng rỡ niềm vui về nhà Cha, ở dưới mái ấm chở che, an ủi, chữa lành của lòng Chúa thương xót .
 Sở dĩ tôi dám nói vậy, vì không ai có thể chối cãi đức tin đơn sơ, nhưng  thuyết phục của những bà mẹ quê chân tay còn lấm bùn, mắt long lanh ngước cao, môi mấp máy cầu nguyện ; những thanh niên, thiếu nữ  thời đại nghiêm trang trước Mình Thánh Chúa, hai tay ôm đầu, khiêm tốn thầm thĩ xét mình xưng tội ; tôi cũng thấy anh chị em trong ban Phục Vụ niềm nở, thân thiện hướng dẫn chỗ gửi xe cho những người mới lần đầu đến Giáo Điểm, và tôi không khỏi xúc động trước niềm tin của anh chị em các tôn giáo bạn kính cẩn vái dài, vái sâu trước tượng Chúa Giêsu của lòng thương xót, và hai vị tông đồ của Lòng Thương Xót Chúa : thánh nữ Faustina và đức thánh giáo hoàng Gioan Phaolô đệ nhị.
 Tôi không thuộc chiến tuyến, phe cánh nào trước hiện tượng cha Long Lòng Chúa Thương xót, danh xưng được dành riêng cho một con người, một linh mục được coi là rất hot, siêu sao, thần tượng có người còn phong thánh sống từ những năm gần đây, do sức lôi cuốn mãnh liệt của con người này, và những bài giảng đầy xác tín, cùng những phép lạ từ việc đặt tay chữa bệnh, chúc lành của vị linh mục một thời là tu sĩ dòng Thánh Thể.       
Tôi quen biết cha Long từ những ngày được gọi là u ám, ảm đạm của ngài, khi Cha gặp khó khăn với nhà Dòng, rồi đau bệnh, phải nghỉ dưỡng ở nhà người chị, trong giáo xứ Tân Việt. Ngày ấy tôi đi theo một cha bạn và được may mắn chào thăm, quen biết cha Long, và mãi đến hôm nay, tôi không có dịp gặp lại ngài.
Thời gian trôi nhanh với Giáo Điểm Tin Mừng ngày càng phát triển, thu hút nhiều người lương, giáo đến nghe giảng và cầu xin với Lòng Thương Xót Chúa. Tôi  được nghe về nhiều ơn lạ đã được Chúa ban ở nơi này, nhưng đồng thời cũng đầy tai những ý kiến thuận và nghịch, khen và chê, nhiệt liệt ủng hộ và kịch liệt chống đối cha Long của đủ mọi tầng lớp, từ bình dân học vụ » đến trí thức khoa bảng, từ giáo dân đến Giáo Sĩ, Giáo Phẩm. Và tên cha Long gắn liền với Giáo Điểm Tin Mừng, cùng với uy tín và cả tai tiếng của Cha.       
 Hôm nay, tận trời Paris, ở thời điểm tôi đang viết, cha Long và Giáo Điểm Tin Mừng đang là điểm nóng, điểm đỏ, điểm ngắm của nhiều người, nhưng cũng là điểm son, điểm hẹn, điểm đến của số đông ngày càng gia tăng. 
Sở dĩ tôi mượn tháng sáu của Thánh Tâm Chúa để viết về cha Long và Giáo Điểm Tin Mừng là vì tôi cần Lòng Thương Xót của Thiên Chúa làm chià khoá để tháo cởi những trói buộc của hiềm khích, đố kị giữa những người anh em cùng một Cha ; làm ánh sáng để phá tan bóng tối hiểu lầm, hiểu sai vì thành kiến và ác ý của những người cùng một lý tưởng ; làm bóng mát, dòng sông để xoa dịu cơn sốt quyền lực, quyền lợi mà anh em một nhà đang trút đổ trên nhau ; làm mẫu số chung để những khác biệt, đối kháng được hoá giải và hoà giải ; làm nền tảng để xây dựng mái ấm tình thương cho nhân loại, cũng là Đền Thờ của Ba Ngôi Thiên Chúa. Với tâm tình và niềm xác tín đó, tôi mạo muội chia sẻ với Bạn, người đang đọc những tâm sự này :
Trước hết, chúng ta không thể  phủ nhận những ý kiến, quan điểm và chọn lựa ủng hộ công việc truyền giáo của cha Long của một số đông gồm cả hàng giáo sĩ, tu sĩ, bằng chứng là số người đến Giáo Điểm Tin Mừng ngày càng gia tăng, và nhiều bài viết từ các linh mục. Và nói gì đi nữa, hoặc bênh hoặc chống, chúng ta cũng dành chút thời gian để nhìn vào những con người dắt dìu nhau tìm đến Giáo Điểm.
Người ta đến đó với nhiều mục đích, do nhiều nhu cầu khác nhau : có người đến để tham quan cho biết, bởi ra vào không ai hỏi giấy tờ, không cần khai báo với các anh Bảo Vệ ; có người đến để quan sát, nghe ngóng, thăm dò xem cha Long có lạc đạo, giảng dạy bừa bãi, làm lễ không đúng quy luật phụng vụ, hay lạm dụng sứ vụ loan báo Tin Mừng để làm tiền, làm chính trị không ; có người đến nhìn ngó thùng tiền to đùng và tìm hiểu đường đi của những đồng tiền ấy có đúng hướng, đúng địa chỉ không ; có người đến để hỏi thăm công việc của nhóm Phục Vụ, Ca Đoàn may ra có tìm được kẽ hở lừa bịp nào đó của cha Long trong việc đạo diễn gọi người này, kêu người kia lên cung thánh kể lể gia cảnh, hoàn cảnh và làm chứng  phép lạ mới nhận được tại Giáo Điểm sau khi được ngài đặt tay cầu nguyện, chữa lành ; cũng có người đến để thử vận, đón gió, chờ thời với hy vọng may ra Chúa  làm phép lạ cho đổi đời.
Nhưng  bên cạnh thiểu số đến Giáo Điểm với những mục đích, nhu cầu vừa kể, chắc chắn đã có và đang có rất nhiều người đến Giáo Điểm với nhu cầu và mục đích hoàn toàn khác : họ là những người đến với tất cả yếu đuối thân xác và linh hồn ; đến bằng niềm tin đơn sơ, tín thác ; đến trong hy vọng được Chúa thương xót chữa lành không chỉ  vết thương, vết bầm thân xác, mà cả những vết hằn, vết đau tâm hồn.
Họ đến vì cần Chúa, bởi chỉ  có Chúa mới có thể cứu họ, sau khi đã chạy chọt các cửa, cầu cứu đủ nơi ; họ đến vì biết Chúa làm được mọi sự, bởi không có gì là không thể làm được đối với Thiên Chúa, sau khi đã bôn ba, đôn đáo khắp nơi chạy thầy chạy thuốc nhưng tất cả đều bó tay, bất lực ; họ đến vì tin Chúa thương và không từ chối, xua đuổi họ, sau những lần bị nhiều người ở nhiều nơi đuổi xua, chối từ ; họ đến vì ở đây không có  hàng rào , trạm kiểm soát ngăn chặn, cấm cản họ đến gần Chúa; họ đến vì nơi này không ai nhận ra họ là người tội lỗi, có tội trống đáng nguyền rủa ; họ đến vì không ai hạch hỏi lý lịch, công trạng, đức hạnh, vai vế, chức vị, nên thấy mình được tự do và tôn trọng dù chỉ là phận hèn vô danh tiểu tốt ; họ đến để tránh những xâm soi, dòm ngó, lườm nguýt chỉ vì nhân thân, gia cảnh nhiều oan khiên, ngang trái ; họ đến có khi vì tránh búa rìu của thành kiến, cơ chế,  truyền thống, tập tục ; và điểm chung dễ thấy nơi họ là  tất cả đã đến đây để được thấy, được chia sẻ và đồng cảm với mọi người có mặt nỗi niềm của những đứa con bệnh tật, yếu đuối, tội lụy đang cần được Thiên Chúa là Cha nhân hậu xót thương và được anh em mở lòng cảm thông, chia sẻ, cùng cầu thay nguyện giúp cho nhau.
Những con người  từ thập phương  đã và đang đến đây với thân phận mỏng dòn, tật bệnh hồn xác, và thiếu thốn mọi sự tất nhiên sẽ không khôn ngoan, khéo léo, chững chạc, qúy phái, tinh tế như những bậc hiền triết thông thái, những người giầu nhiều thế lực, ảnh hưởng, hay những chức sắc tài cao đức trọng. Trái lại, họ đầy những thô thiển trong cung cách, những thái quá bất cập trong hành động, và cả những thiếu sót trong  phán đoán, tư duy. Nhưng Thiên Chúa không trách cứ họ điều này, nếu họ đã đến với lòng thành và tất cả  con người thật. Vấn đề, nếu có là của con người chúng ta với nhau, khi Lòng Thương Xót bị chúng ta cho rơi vào một trong những trường hợp được nêu ra sau đây :
  
1.   Trường hợp Lòng Thương Xót của Thiên Chúa bị biến thành một món hàng được mặc cả, buôn bán, đổi chác :
 Lòng Thương Xót của Thiên Chúa là ơn sủng thiêng liêng được ban nhưng không cho con người, do lòng thương vô biên của Thiên Chúa. Vì thế, không có chuyện  mặc cả, mua bán, đổi chác, thương lượng khi con người đến với Lòng Thương Xót. Chẳng hạn phải nộp vào thùng dâng cúng vài trăm ngàn hay vài triệu, hoặc nhiều hơn nữa thì Chúa mới ban ơn; hoặc khi được ơn rồi, thì phải lo trả nợ Chúa, như kiểu đi vay nợ thần thánh để làm ăn. Chúng ta chẳng lạ gì chuyện đến ngày vía ông thần, bà chúa hằng năm, thiên hạ đổ xô đi vay tiền hoặc hậu tạ các ông thần, bà chúa, làm sục sôi cả một vùng núi, nơi các ông thần, bà chúa ngự, bởi có vay tiền thần thánh mới buôn may bán đắt, và khi ăn nên làm ra rồi thì phải trả tiền lời cho thần thánh gấp năm, mười lần, nếu không thần thánh sẽ nổi giận  làm cho khánh kiệt , tan gia bại sản, có khi gặp nạn, chết không kịp ngáp.    
Tuyên truyền một Lòng Thương Xót có giá biểu, mặt hàng, hoá đơn, vay vốn, trả lời như thế là xúc phạm tình yêu, lòng tốt của Thiên Chúa, và đó là điều phải hết sức thận trọng khi trình bầy Lòng Thương Xót Chúa, để không ai hiểu sai ơn sủng nhận được do Lòng Thương Xót Chúa chỉ là món hàng mua được  bằng tiền bạc.
 Đức Thánh Cha Phanxicô trong cuộc tiếp kiến chung ngày 30.05.2019 đã nói về : Ơn Cứu Độ không được mua bán như sau :
Không có sự cạnh tranh để kiếm được hoặc để xứng đáng được ơn huệ của Thiên Chúa. Mọi điều được trao ban cách nhưng không và đúng lúc. Chúa ban tất cả cách nhưng không, hoàn toàn nhưng không. Ơn cứu độ không được mua bán : đó là quà tặng hoàn toàn nhưng không. Trước sự lo lắng của các môn đệ về việc biết trước thời điểm xẩy ra những điều Chúa Giêsu đã công bố, Người nói với họ : Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần, khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđea, Samaria và cho đến tận cùng trái đất (Cv 1,7-8) (Bản dịch Hồng Thủy, theo https://vaticannews.va)
2.   Trường hợp Lòng Thương Xót bị đóng khung, giới hạn vào những phép lạ chữa bệnh thân xác thấy được :
Là con cái, chúng ta có quyền và được mời gọi đến với Thiên Chúa, Cha chúng ta với tất cả những gì chúng ta , và chúng ta , nhưng hầu hết chúng ta chỉ đứng dậy đi tìm và đến với Chúa khi thân xác đã rã rời, yếu nhược, và linh hồn khô khan, tội lỗi.
Như người con hoang đàng trở về với thân tàn ma dại sau những ngày dài túng thiếu, nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng. Người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy cám heo ăn cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho (Lc 15,14-16), chúng ta cũng trở về với Thiên Chúa như vậy, cùng tình trạng thân tàn và hồn cũng tàn theo như người con phung phá. Vì thế, chúng ta cần Chúa chữa lành không chỉ thân xác mà cả linh hồn, và linh hồn mới là điều Chúa muốn chúng ta ưu tiên xin Ngài cứu chữa.
Do đó, khi xin Chúa cứu chữa bệnh thân xác, chúng ta cũng đừng quên xin Chúa đổi mới tâm hồn, và Chúa biết điều nào chúng ta cần hơn, ưu tiên nào Chúa muốn chúng ta thực hiện trước cho phần rỗi của chính chúng ta. Phần chúng ta, hãy đón nhận ơn Chúa với tâm tình : tất cả là hồng ân.
Tất cả là hồng ân khi Chúa ban cho ta những ơn ta xin ; tất cả là hồng ân khi ta xin ơn, nhưng chưa được ; tất cả là hồng ân cả những điều ta không muốn, không xin mà Chúa vẫn cứ trao, bởi chỉ một mình Chúa biết điều gì cần cho ta lúc này và ở đây ; chỉ một mình  cha  hiền biết con thơ sẽ phải làm gì, đi trên con đường nào, nên cần gì, ở thời điểm và cách thế nào. Thiên Chúa là người cha nhân hậu, là Cha chúng ta, Người biết chúng ta cần gì và căn dặn : Trước hết hãy tìm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ khác, Người sẽ ban cho (Mt 6,33), và để chúng ta tin Thiên Chúa là Đấng quảng đại, rộng lượng thi ân, Đức Giêsu đã khẳng định với các môn đệ của Ngài : Thầy bảo anh em : anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho… Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó ? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp ? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao ? (Lc 11, 9-13). 
Ban Thánh Thần là ban chính tình yêu, sức sống, hạnh phúc của Thiên Chúa, nói đúng hơn là ban chính Thiên Chúa cho chúng ta, và khi nhận được Thánh Thần, chúng ta được tràn đầy bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nnhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ (Gl 5,22-23), là hoa thơm  trái ngọt của Thánh Thần,  Tình Yêu của Chúa Cha và Chúa Con.   
3.   Trường hợp Lòng Thương Xót bị cắt nghiã như của cho không giá trị.
 Có nhiều người hiểu ơn sủng của Lòng Thương Xót như của cho vô giá trị, nghiã là cho bừa bãi, cho lung tung. Họ cần nghe lại lời cảnh cáo của Đức Giêsu khi nói về của thánh, tức ân sủng : Của thánh đừng quăng cho chó ; ngọc trai, chớ liệng cho heo, kẻo chúng giầy đạp dưới chân, rồi còn quay lại cắn xé anh em (Mt 7,6).
Tuy Lòng Thương Xót Chúa được ban nhưng không, nhưng không có nghiã người nhận ơn thương xót không cần quan tâm hay chẳng phải làm gì. Tin Mừng Mátthêu trả lời vấn nạn này khi ghi lại dụ ngôn tên đầy tớ mắc nợ không có lòng thương xót :
Người ta dẫn đến nhà vua một kẻ mắc nợ vua mười ngàn yến vàng. Y không có gì để trả, nên tôn chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con, tài sản mà trả nợ. Bấy giờ tên đầy tớ ấy sắp mình xuống bái lậy : Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết. Tôn chủ của tên đầy tớ ấy liền chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ. Nhưng vừa ra đến ngoài, tên đầy tớ gặp một người đồng bạn, mắc nợ y một trăm quan tiền. Y liền túm lấy, bóp cổ mà bảo : Trả nợ cho tao !. Bấy giờ người đồng bạn sấp mình xuống năn nỉ : Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh. Nhưng y không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ. Thấy sự việc như vậy, các đồng bạn của y buồn lắm, mới đi trình bầy với tôn chủ đầu đuôi câu chuyện. Bấy giờ, tôn chủ cho đòi y đến và bảo : Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao ?. Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông. Ấy vậy, Cha trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình (Mt 18,24-35).
Qủa thực, không còn gì rõ hơn điều kiện để nhận được Lòng Thương Xót của Chúa, và chúng ta không nghi ngờ gì về bổn phận thương xót chúng ta phải làm cho nhau, nếu muốn được Thiên Chúa ban ơn thương xót, bởi Phúc cho ai thương xót người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương (Mt 5,7).      
4.   Trường hợp niềm tín thác vào Lòng Thương Xót Chúa bị biến thành mê tín.
Ranh giới giữa niềm tin và mê tín thường rất mong manh, và niềm tin dễ bị mê tín lấn lướt trong nhiều trường hợp, nhất là khi niềm tin chưa được trui luyện, và trưởng thành.
Đây cũng là nỗi lo hàng đầu của các Đấng Bậc có trách nhiệm gìn giữ kho tàng đức tin.
Người viết xin trích lại một phần của bài Mê Tín đã viết không lâu, để chia sẻ với qúy Bạn về những khác biệt giữa  đức tin còn gọi là niềm tin và mê tín.
    
a.   Niềm tin tôn giáo đòi hiểu biết, trong khi mê tín là kết qủa của mê muội :
Người tín hữu theo một tôn giáo là dấn thân tin một Đấng được tôn giáo ấy giới thiệu, loan truyền, làm chứng, nên không ai có thể tin nếu không biết về Đấng mình tin, và chỉ tin khi lý trí người tín hữu chấp nhận những điều nghe kể về Đấng ấy là đáng tin, những chứng cứ về Đấng ấy là khả tín, nghiã là không phi lý, hay ngược lại suy tư, luận lý tự nhiên, bình thường.
Mê tín thì ngược lại, khi người ta không biết gì, hoặc biết rất ít, rất mơ hồ về người và điều mình tin, nhất là những điều này không có  nền tảng để có thể tin đươc, vì phi lý và tự thân mâu thuẫn.
b.  Niềm tin tôn giáo đòi yêu mến, tin tưởng, khác với mê tín mang nặng lo âu, sợ hãi :
Đức Tin luôn mang lại niềm vui, vì khi tin, ngừơi tín hữu hay tín đồ hạnh phúc vì biết mình được yêu bởi Đấng mình đã tin và yêu mến. Không ai có thể tin người mình không yêu mến, cũng như không ai có thể yêu mến người mình không tin. Tin và yêu sánh đôi với nhau, nên có tin là có yêu, có yêu mới tin được, và người tin luôn là người hạnh phúc vì yêu và được yêu.
Niềm tin tôn giáo là gắn bó thiết thân giữa cá nhân mỗi người với Đấng siêu nhiên. Gắn bó thiết thân ấy chính là tình yêu và lòng tin tưởng, nên niềm tin không bao giờ sợ hãi, khác với mê tín đầy ắp lo âu, sợ sệt, vì chỉ có đe dọa, và vắng bóng tín nhiệm, yêu thương.
Nhưng tại sao có sự khác biệt này giữa người có đức tin và người mê tín ?
Thưa vì người có đức tin tin vào Đấng thương mình, tin ở Đấng có quyền năng nhưng nhân hậu luôn cứu giúp mình, trong khi người mê tín tin vì sợ hãi một sức mạnh không tên, một thế lực vô danh, một khuôn mặt bí ẩn luôn soi mói, rình rập, một bàn tay uy lực, nhưng tàn ác, nên tin của mê tín là tin vì bị đe dọa, tin vì sợ tai hoạ, tin để tránh bị trừng  phạt, báo oán, chứ không tin vì yêu, tin vì hy vọng, tin vì ký thác vào tình thương, và lòng nhân hậu của Đấng quyền năng, nhưng tốt lành, nhân ái, như người tín Kitô  hữu tin Đức Giêsu là Thiên Chúa giầu lòng thương xót, chậm bất bình và rất đỗi khoan dung, và tín đồ Phật giáo tin ở Đức Thích Ca Mâu Ni là người đắc đạo và đầy lòng từ bi, hỉ xả, thương yêu chúng sinh.
c.    Niềm tin tôn giáo không mua bán, trao đổi bằng vật chất như mê tín :
Nói đến niềm tin, đức tin, tôn giáo nào cũng trân trọng như giá trị tuyệt đối linh thiêng, nên không thể dùng vật chất để trao đổi, mua bán niềm tin, đức tin. Người tín hữu, tín đồ tin yêu Đấng giáo chủ của mình với tâm hồn trong sáng, với trái tim tinh ròng nồng nàn, và sự gắn bó giữa tín đồ, tín hữu với Đấng thiêng liêng là một tương quan nội tâm, thánh thiện.
Vì thế, khi có hoạt động buôn thần bán thánh, tức trao đổi bằng vật chất như tiền bạc, của cải giữa thần thánh và con người thì đức tin không còn, và niềm tin biến thành mê tín, bởi ơn lành, phúc trọng nhận được từ Đấng thiêng liêng là ơn được ban nhưng không, nghiã là ban vô điều kiện, khi con người cầu xin Đấng mình tin yêu với lòng thành. 
Khác với mê tín, ở đó, người mê tín đi mua sự may mắn, trao đổi với Sức Mạnh huyền bí bằng tiền bạc, của cải để thoát khỏi tai họa, nguy hiểm nào đó, và đạt được điều mong ước. Vì thế, bất cứ hành vi mê tín nào cũng nại đến vật chất, cũng đòi phải trả tiền, trả công, trả ơn quyền lực huyền bí qua người trung gian. Đó là lý do người ta lợi dụng nhiều người nhẹ dạ, cả tin để lừa tiền, gạt của, khi tự cho mình là người biết được ý Trời, nghe được tiếng của thần thánh, khi có người đến hỏi về tương lai, vận mệnh, hoặc xin ơn này, ơn nọ.
d.   Niềm tin là chọn lựa tự do của người trưởng thành, không nhẹ da, cả tin như mê tín :
Đức tin là sự sống của người tín hữu và đức tin ấy, niềm tin tôn giáo ấy đi với người tín hữu, tín đồ suốt hành trình cuộc đời của họ. Vì thế, đức tin lớn lên với thăng trầm của cuộc sống, với niềm vui, nỗi buồn từng ngày, với gian khó, thử thách của hoàn cảnh, và tương quan ở mọi chiều kích.
Vì thế, sẽ không có đức tin nhẹ tênh, dễ dãi, nhưng đức tin nào cũng trầy trụa trải nghiệm vất vả, hy sinh ; niềm tin nào cũng rướm máu vì vượt qua nhiều chướng ngại thách đố, nên người tin sẽ là người trưởng thành, vì tự nguyện chọn lựa, tự ý dấn thân, tự do lên đường, và không hề bị ai dụ dỗ, áp lực. Đây chính là sự khác biệt giữa người tín hữu, tín đồ và người mê tín. Người có đức tin là người trrưởng thành khi đóng chặt niềm tin của mình vào Đấng là Sự Thật, và là Đường, trong khi người mê tín không biết ai thật, giả, điều gì đáng tin hay không đáng tin, nhưng cả tin, nhẹ dạ, để mình bị rủ rê, mua chuộc, tán tỉnh đi vào đường mê tín.
e.    Niềm tin mang tính hiệp thông, khác với mê tín là hành vi cá nhân và biệt lập :
Đức Tin của tôn giáo chính danh nào, ngoài tính cá nhân, cũng mang tính cộng đoàn hiệp thông, nghiã là cùng tin với những người tin khác, cùng chia sẻ niềm tin với cộng đồng, đồng lao cộng khổ vì lợi ích chung, sẵn sàng hy sinh cho hạnh phúc của mọi người, và tương thân tương trợ trên hành trình đức tin.
Khác với mê tín luôn là hành vi cá nhân, biệt lập, không dính dáng, quan tâm đến người khác, không can dự đến cộng đồng xã hội, vì chỉ nhắm mục đích phục vụ lợi ích cá nhân, tìm giải quyết nhu cầu riêng tư, nên mê tín luôn mang tính ích kỷ, đóng khung, khép kín, hạn hẹp, biệt lập, nhất là không minh bạch và không thể chia sẻ, hiệp thông. 
f.     Niềm tin làm con người hạnh phúc vì được yêu và bình an ; mê tín làm con người bất hạnh vì bị đe dọa và sợ hãi :
Muốn biết một người có đức tin đích thực, có niềm tin chân chính, chúng ta chỉ cần nhìn xem họ có hạnh phúc, bình an hay không ? Người có đức tin không thể là người buồn sầu, thất vọng, chán đời, không muốn sống, vì đức tin là nguồn vui, ơn bình an, là lẽ sống cho đời người hạnh phúc. Người tín hữu Thiên Chúa giáo tìm đến Thiên Chúa là niềm vui của họ, vì Thiên Chúa yêu thương và cứu độ họ, vì Thiên Chúa nhân hậu và bao dung tha thứ cho họ mọi lỗi lầm, vì Thiên Chúa là gia nghiệp, phần thưởng, thiên đàng của họ ; cũng như người con Phật tìm đến cửa Phật để được thư thái, bình an.
 Khác hẳn niềm tin đem lại bình an nội tâm, và niềm vui sống với mọi người, với cuộc đời, mê tín chỉ đem lại bất hạnh, vì triền miên bị những đe dọa của tai ương đeo bám, bị thần thánh đe loi trừng phạt, bị vong hồn từ bao đời oan nghiệt đòi nợ, trả thù, báo oán. Người mê tín không khác người nghiện xì ke, ma túy, khi hoàn toàn lệ thuộc vào những phán quyết tào lao, đồng bóng của người tự nhận là sứ giả, phát ngôn của thần thánh. Họ mất hẳn tự tin, vì không còn bản lãnh và tinh thần độc lập, tự quyết ; họ tha hoá tận cùng khi không còn ý chí quyết định và họ bất hạnh hơn tất cả những người bất hạnh khác, vì phải sống trong đe dọa, sợ hãi, lo âu. Những lo sợ này do người trung gian giữa thần thánh và họ tạo ra để giữ họ làm con ti ; những đe dọa làm hoang mang, hỏang lọan, mất tinh thần là khí giới thần sầu qủy khốc và độc chiêu được những tay lừa đảo, buôn thần bán thánh sử dụng để làm tiền. Và những người trót rơi vào vực thẳm mê tín đã vô phúc trở thành nạn nhân đáng thương của những chiêu trò bịp bợm tinh vi và phi nhân luôn tìm đánh vào những người có tâm lý non nớt, bất ổn
5.   Trường hợp thừa tác viên được quần chúng phong thánh, phong thần đến độ được coi là người làm được các phép lạ, mà không cần Thiên Chúa.
Nếu chúng ta nhận được ơn lạ cứu chữa phần xác, phần hồn khi chạy đến Lòng Thương Xót Chúa, đó chính là Thiên Chúa ban cho chúng ta qua trung gian những người Chúa tuyển chọn và ban cho đặc sủng để phục vụ dân Chúa. Đây là điều chúng ta phải nằm lòng, nếu không, chúng ta sẽ rơi vào tình trạng mất đức tin ở Thiên Chuá, vì những lý do sau đây :
a.     Vì ma qủy cũng làm được các phép lạ.
Bởi gốc gác của ma qủy là thiên thần, nên mang bản tính thiêng liêng, mà loài thiêng liêng thì làm được những sự lạ, vì không bị lệ thuộc thời gian và không gian, chưa kể Thiên Chúa, dù bị Luxiphe và một số thiên thần phản nghịch vẫn không hủy bỏ bản tính thiêng liêng thuộc hàng thiên thần của chúng như thánh Phaolô đã viết : Lạ gì đâu ! Vì chính Xatan cũng đội lốt thiên thần sáng láng (2 Cr 11,14).   
Tin Mừng Mátthêu trong trình thuật Đức Giêsu chịu cám dỗ đã ghi rõ những phép lạ của ma qủy làm khi chúng đến cám dỗ Ngài trong hoang địa : Ma qủy đem Người đến thành thánh và đặt Người trên nóc đền thờ… (Mt 4,6) ; Qủy lại đem Người lên một ngọn núi rất cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các nước thế gian và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy (Mt 4,8).
b.    Các phù thủy cũng làm được những điều lạ.
 Sách Công Vụ Tông Đồ đã kể về phù thủy tên Simôn : Trong thành ấy, có một người tên là Simôn, vốn dùng phù phép làm cho dân Samari kinh ngạc. Ông ta xưng mình là một nhân vật quan trọng và mọi người từ nhỏ đến lớn đều chú ý đến ông. Họ nói : Ông này là Quyền Năng của Thiên Chúa, Quyền Năng được gọi là Vĩ Đại. Họ chú ý đến ông, vì từ khá lâu ông đã dùng phù phép làm cho họ kinh ngạc (Cv 8,9-11).  
 Trái với ma qủy và phù thủy, các tông đồ luôn nhân danh Đức Giêsu khi làm phép lạ, như lời căn dặn của Đức Giêsu khi Ngài sai các vị đi rao giảng Tin Mừng : Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án. Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin : nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được qủy, sẽ nói được những tiếng lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhầm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì  những người này sẽ được mạnh khoẻ. (Mc 16,15-18).
Sách Công Vụ Tông Đồ kể Phêrô đã chữa một người què : Một hôm, ông Phêrô và ông Gioan lên Đền Thờ, vào buổi cầu nguyện giờ thứ chín. Khi ấy người ta khiêng đến một người què từ khi lọt lòng mẹ… Vừa thấy ông Phêrô và ông Gioan sắp vào Đền Thờ, anh liền xin bố thí. Hai ông nhìn thẳng vào anh, và ông Phêrô nói : Anh nhìn chúng tôi đây ! Anh chăm chú nhìn hai ông, tưởng rằng sẽ được cái gì. Bấy giờ ông Phêrô nói : Vàng bạc thì tôi không có, nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây : Nhân danh Đức Giêsu Kitô, người làng Nadarét, anh đứng dậy mà đi ! Rồi ông nắm chặt lấy tay mặt anh, kéo anh trỗi dậy. Lập tức bàn chân và xương mắt cá của anh trở nên cứng cáp. Anh đứng phắt dậy, đi lại được, rồi cùng với hai ông, anh vào Đền Thờ, vừa đi vừa nhẩy nhót và ca tụng Thiên Chúa. Toàn dân thấy anh đi lại và ca tụng Thiên Chúa (Cv 3,1-9).
Tông đồ Phêrô đã nhân danh Đức Giêsu Kitô để làm phép lạ. Điều đó có nghiã, không phải Phêrô làm phép lạ chữa lành cho người què, nhưng chính Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa mới là Đấng ban ơn chữa lành, cũng như ban các ơn thiêng liêng đổi mới, thánh hoá linh hồn cho người tin ở Ngài.
Vì thế, trước ơn lạ nhận được có thể từ việc đặt tay cầu nguyện, chúng ta tin Thiên Chúa ban đặc sủng cho thừa tác viên của Ngài để phục vụ lợi ích của cộng đoàn, và Ngài ban cho những người Ngài muốn.
Như Chúa Thánh Thần là Gió : Gió đến từ đâu, đi đâu, ở lại nơi nào thì tùy Gió, nào có ai biết và ngăn cản được Gió bao giờ ? Ơn sủng của Thiên Chúa cũng vậy : hoàn toàn thuộc quyền tự do của Ngài khi Ngài chọn người Ngài muốn để phân phát ơn của Ngài cho mọi người, nên không lạ gì khi có người được Thiên Chúa ban cho ơn chữa bệnh, ơn nói trước những điều sẽ xẩy ra, như thánh Phaolô đã khẳng định :  
Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung. Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dậy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bầy. Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin ; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri ; kẻ thì được ơn phân định thần khí ; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ, kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ. Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người một cách, tùy theo ý của Người (1 Cr 12,4-11).
Cũng trong thư gửi giáo đoàn Côrintô, thánh Phaolô qủa quyết tính chủ động của Thiên Chúa trong tất cả mọi công trình : Vậy Apôlô là gì ? Phaolô là gì ? Đó là những tôi tớ đã giúp cho anh em có đức tin, mỗi người đã làm theo khả năng Thiên Chúa ban. Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên mới đáng kể. Kẻ trồng, người tưới đều như nhau, nhưng ai nấy sẽ được thù lao theo công khó của mình. Thật vậy, chúng tôi là cộng sự viên của Thiên Chúa. Anh em là cánh đồng của Thiên Chúa, là ngôi nhà Thiên Chúa xây lên (1 Cr 3,5-9).
6.   Trường hợp không nhắm đến lợi ích các linh hồn :
Khi chọn các môn đệ bên biển hồ Galilê, Đức Giêsu đã cho các ông biết mục đích của việc đi theo Ngài : Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá (Mt 4,19) ; ở với các ông, Ngài dậy các ông lòng khao khát các linh hồn, khi tỏ ra ý muốn  không để mất một người nào Chúa Cha đã trao ban cho Ngài (Ga 17,12), nhưng tìm đưa tất cả về một ràn … Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử (Ga 10,16),  và nếu chẳng may bị lạc mất con chiên nào, Ngài quyết tìm cho kỳ được (Lc 15,4.8) ; đặc biệt khi sai các môn đệ đi truyền giáo, Ngài xác định mục tiêu : Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy (Mt 28,19). Muôn dân ý nói hết mọi người ở mọi nơi, mọi thời, không loại trừ ai, như thị kiến của tông đồ Phêrô : Đang khi người ta dọn bữa, thì ông xuất thần. Ông thấy trời mở ra và một vật gì sà xuống, trông như một tấm khăn lớn  buộc bốn góc, đang được thả xuống đất. Trong đó có mọi giống  vật bốn chân và rắn rết sống trên đất, cùng mọi thứ chim trời. Có tiếng phán bảo ông : Phêrô, đứng dậy, làm thịt mà ăn ! Ông Phêrô thưa : Lậy Chúa, không thể được, vì không bao giờ con ăn những gì ô uế, và không thanh sạch ». Lại có tiếng phán bảo ông lần thứ hai : Những gì Thiên Chúa đã tuyên bố là thanh sạch, thì ngươi chớ gọi là ô uế (Cv 10,10-15).
Như thế, các linh hồn phải là ưu tiên thứ nhất trong công cuộc rao giảng Tin Mừng, và như người đi buôn với vốn liếng của ông chủ, mỗi người chúng ta với ơn của bí tích rửa tội đều có sứ vụ làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Đức Giêsu tùy theo vốn liếng được Chúa trao (x.Mt 25,14-30), nếu không chúng ta sẽ bị khiển trách vì đã sống như người đầy tớ tồi tệ và biếng nhác (Mt 25,26). 
Tâm tình chia sẻ với Bạn đã qúa dài !
Để kết thúc, lại một lần nữa tôi minh định không cho phép mình phê phán bất cứ ai quanh vụ việc Giáo Điểm Tin Mừng này, vì tôi không có khả năng và thẩm quyền. Tôi chỉ dám xin hiệp ý với Bạn cầu nguyện cho  mọi người, mọi thành phần, mọi phẩm trật trong Giáo Hội, đặc biệt cầu nguyện cho cha Long, cho mọi người thiện chí, bất luận lương, giáo hay vô thần đến tìm Thiên Chúa của Lòng Thương Xót ở Giáo Điểm Tin Mừng, cho những người ủng hộ cũng như những anh em chống đối, lên án cha Long được tràn đầy ơn Thánh Thần, để với ơn cao trọng nhất là Đức Ái (1 Cr 12,31), tất cả chúng ta, mỗi người ở vị thế, vai trò, khả năng, trách nhiệm của mình biết nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc .., không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù (1 Cr 13,4-5) để Đức Giêsu được lớn lên, và nổi bật (Ga 3,30), bởi tất cả chúng ta chỉ là khí cụ trong tay Ngài ; biết không vui khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật (1 Cr 13,6), để  cùng ngồi lại và nhẹ nhàng giúp nhau nhận ra điều sai phải sửa, khiếm khuyết cần bổ túc, điều tốt lành nên phát huy, bởi là con người, có ai hoàn hảo, thánh thiện, không tì ố, như Đức Giêsu đã thách thức các ông Kinh Sư và Biệt Phái đang hằm hằm, căng thẳng, khẩn trương, tay cầm sẵn những cục đá to đùng, bén nhọn chực chờ vùi giập không thương tiếc thân liễu mỏng manh của người phụ nữ ngoại tình bị bắt qủa tang: Ai trong các ông thấy mình không có tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi (Ga 8,7) ; sau cùng với ơn cao trọng là Đức Ái, mỗi người trong Giáo Hội, ở mỗi góc độ riêng của bổn phận sẽ tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả (1 Cr 13,7), để bảo đảm sự hiệp nhất, hiệp thông trong Đức Giêsu là căn tính của Thân Thể mầu nhiệm là Giáo Hội, đồng thời để Lửa canh tân và cứu độ của Chúa Thánh Thần không bị giập tắt cách oan uổng.
Ước gì Tình yêu Đức Kitô không chỉ thúc bách chúng ta (2 Cr 5,14) mà còn liên kết chúng ta nên một (x.Ga 17,22-23), để Thiên Chúa được vinh danh và mọi nguời được ơn cứu rỗi.
Jorathe Nắng Tím