Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 24 tháng 8, 2020

ĐAU KHỔ VÀ PHẢI CHẾT

 

Suy Niệm TIN MỪNG CHÚA NHẬT 22 Thường Niên, Năm A

Khi yêu ai, chúng ta không muốn người ấy phải lo lắng, đau khổ vì ta, nên ta thường cố giữ hết cho mình những phiền muộn, khó khăn, thất bại, đe dọa, như người cha dù biết mình mang bệnh nan y và qũy thời gian sống không còn bao lâu nhưng vẫn tỏ ra “như không có gì” để vợ con được bình an, hạnh phúc. 

Đức Giêsu cũng không khác chúng ta. Ngài thương các môn đệ và biết các ông sẽ “sốc nặng”, nếu biết con đường Thương Khó Ngài sắp phải đi, và cuộc tử hình Ngài sẽ phải chịu,  cũng là con đường dành riêng cho những ai muốn đi theo Ngài.  

Qủa thực, cho đến biến cố Phêrô tuyên xưng đức tin của mình cũng là niềm tin của Nhóm Mười Hai: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16), Đức Giêsu vẫn chưa hé mở cho các ông biết: Ngài “sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21). Chẳng thế mà sau khi Phêrô tuyên tín: “Thầy là Đấng Kitô”, Đức Giêsu đã “cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Kitô” (Mt 16,20), bởi không người nào, kể cả các môn đệ thuộc Nhóm Mười Hai đã được chuẩn bị  để sẵn sàng đón nhận sự thật rất đau lòng: Đức Giêsu là Đấng Kitô phải chịu đau khổ và phải chết, Đấng Kitô là người tôi trung đau khổ của Thiên Chúa Giavê mà ngôn sứ Isaia đã báo trước: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (Is 50,6), một hình ảnh hoàn toàn khác với những gì các môn đệ và đám đông mong đợi ở Đức Giêsu, Đấng Kitô ở thời điểm đó.

Điều này đã được minh chứng qua thái độ của Phêrô khi Đức Giêsu báo cho các ông lần thứ nhất cuộc thương khó Ngài sắp phải chịu: “Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!”. Chuyện ấy tức chuyện bị bắt, bị tra tấn, bị giết chết ở Giêrusalem bởi kỳ mục, thượng tế, kinh sư; “chuyện ấy” là chuyện cực kỳ xui xẻo phải tránh, chuyện thất bại tang thương khi cơ đồ cứu thế vĩ đại và hoành tráng ưóc mơ từ bấy lâu sẽ hoàn toàn sụp đổ bẽ bàng, chuyện “tan đàn xẻ nghé” nếu Thầy bị bắt và bị giết, chuyện tiêu tan giấc mơ được ngồi bên trái bên phải trong vương quốc vinh hiển sắp đến của Thầy (x. Mt 20,20-23), chuyện “mất trắng” mọi sự mà “chẳng nên cơm cháo gì” suốt mấy năm đi theo Thầy.

Trước thái độ hốt hoảng can ngăn của Phêrô, Đức Giêsu đã quay lại bảo: “Xatan, lui lai đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,23).

“Lui lại đàng sau Thầy!” nghiã là anh hãy trở về đúng chỗ của anh là môn đệ Thầy, trở về vị trí của người muốn đi theo Thầy, mà không  cản trở Thánh Ý Thiên Chúa là lẽ sống của Thầy, vì đó là công việc của Xatan. “Lui lại đàng sau Thầy!”, Đức Giêsu nhắc Phêrô đòi hỏi quan trọng nhất ở người môn đệ là đứng sau Thầy và đi theo Thầy trên đường Thánh Giá. Ở đây, Đức Giêsu buộc lòng phải cho Phêrô và các môn đệ biết điều các ông không muốn, nhưng lại là điều Thiên Chúa muốn, đó là cùng Ngài đi qua đau khổ, và sự chết để đến phục sinh.

Thực vậy, không chỉ Phêrô và các môn đệ thuộc Nhóm Mười Hai đã “sốc nặng” khi nghe Đức Giêsu tiên báo con đường Thương Khó phải đi qua để đến ngày sống lại, chúng ta cũng sợ hãi lắm trước  những đau khổ, thử thách, và nước mắt, máu và mồ hôi cũng đẫm ướt cuộc đời chúng ta, như Đức Giêsu đã xin Chúa Cha cất chén đắng sắp phải uống cho Ngài trong vườn Cây Dầu trước giờ bị bắt.

Vì thế, không dễ đón nhận Thánh Ý Thiên Chúa, khi Thánh Ý hoàn toàn trái ngược  ý ta; không đơn giản lên đường Thương Khó, vì đường thương đau và khó nhọc chẳng bao giờ hấp dẫn bước chân người đời; không nhẹ nhàng trải bước trên đường Thánh Giá, vì Thánh Giá thì trái ý, ngược dòng, sần sùi, gai góc, nặng nề, khó đi, khó vác, nên nếu không để cho Thiên Chúa quyến rũ, không để Thiên Chúa mạnh hơn và chiến thắng (x. Gr 20,7), chúng ta không thể bước theo chân Ngài, không thể “vác thập giá mình mà đi theo Ngài” (Mt 10,38), cũng như nếu không để “lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt”, người môn đệ sẽ không muốn nghĩ đến Thiên Chúa, “cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa” (Gr 20,9).  

Xin Chúa ban cho chúng con ơn đổi mới tâm hồn, “hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12,2), để “suốt cả đời con, nguyện dâng lời chúc tụng, và giơ tay cầu khẩn danh Ngài…  Lậy Thiên Chúa của con, Ngài là Chúa con thờ” (Tv 62,5.1)

Jorathe Nắng Tím