Tìm kiếm Blog này

Thứ Bảy, 20 tháng 4, 2019

Hai âm mưu đánh đổ “Niềm Tin Sống Lại”


Biến cố Phục Sinh của Đức Giêsu đã thay đổi toàn thể cục diện nhân loại, không chỉ niềm tin nơi người Kitô hữu, mà ở cả những người kịch liệt chống đối và tìm mọi cách tiêu diệt niềm tin ấy.
Thực vậy, biến cố này là nền tảng của Đức tin nơi người môn đệ Đức Giêsu, bởi nếu Đức Giêsu không sống lại thì niềm tin của họ “trống rỗng” như thánh Phaolô đã viết trong thư gửi giáo đoàn Côrintô; đồng thời là lý chứng hùng hồn được khẩn trương và triệt để khai thác bởi phe đối lập hầu dập tắt niềm tin vào một người có tên Giêsu quê Nadarét.

Tin Mừng Mátthêu kể lại rất chi tiết hai câu chuyện, đúng hơn là hai âm mưu xoá bỏ biến cố phục sinh của Đức Giêsu:
1. Âm mưu đề phòng việc cướp xác Đức Giêsu:
“Hôm sau, tức là ngày áp lễ đã qua, các thượng tế và những người Pharisêu kéo nhau đến ông Philatô và nói” : Thưa ngài, chúng tôi nhớ tên bịp bợm ấy khi còn sống có nói : “Sau ba ngày, Ta sẽ trỗi dậy”. Vậy xin quan lớn truyền canh mộ kỹ càng cho đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ hắn đến lấy trộm xác rồi phao tin trong dân là hắn đã từ cõi chết trỗi dậy. Và như thế, chuyện bịp cuối cùng này sẽ còn tệ hại hơn chuyện trước”. Ông Philatô bảo họ: “Thì có sẵn lính đó, các ngươi đi mà canh giữ theo cách các ngươi biết !”. Thế là họ ra đi canh giữ mồ, “niêm phong tảng đá và cắt lính canh mồ” ( Mt 27,62-66).
Phe chủ trương tiêu diệt Đức Giêsu đã thành công mỹ mãn khi dùng tay chính quyền bảo hộ Rôma đóng đinh Ngài vào thập giá. Thành quả hết sức lớn lao tưởng đã cho các thượng tế, kỳ lão, luật sĩ và nhóm Biệt Phái từ nay được ăn ngon ngủ yên, nào ngờ vẫn còn một nỗi lo khác tiếp tục đốt cháy tâm can họ : lo Đức Giêsu sống lại.
Nỗi lo thình lình ập tới khi có người trong họ chợt nhớ có nghe đâu đó lời hứa sẽ sống lại sau ba ngày của Đức Giêsu. Và lời hứa ấy thực đã làm họ phải bối rối, lo âu, điên đảo. Thế là họ lại bắt đầu những ngày tháng mất ăn mất ngủ như những tháng ngày trước đây khi bàn mưu tính kế đưa bằng được Đức Giêsu vào chỗ chết.
Lần này thì kế hoạch tương đối dễ, vì có lính canh gác cẩn mật, nên họ tin chắc sẽ không môn đệ nào của Đức Giêsu có thể đột nhập cướp xác để rồi phao tin Thầy mình sống lại.
 Nhưng lạ lùng thay ! Lính gác thay nhau bám trụ trước cửa mồ suốt ba ngày, thế mà Đức Giêsu đã sống lại, ra khỏi mồ lúc nào họ không hề hay biết. Chỉ đến “buổi sáng ngày thứ nhất trong tuần vừa ló rạng, bà Maria Mácđala và một bà khác cũng tên là Maria đi viếng mộ. Thình lình, đất rung chuyển dữ dội : thiên thần Chúa từ trời xuống lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên ; diện mạo người như ánh chớp và y phục trắng như tuyết. Thấy người, lính canh khiếp sợ, run rẩy chết ngất đi. Thiên thần lên tiếng bảo các phụ nữ : Này các bà, các bà đừng sợ ! Tôi biết các bà tìm Đức Giêsu, Đấng bị đóng đinh. Người không có ở đây, vì Người đã trỗi dậy như Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm, rồi mau về nói với môn đệ Người như thế này : Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Galilê trước các ông. Ở đó các ông sẽ được thấy Người” (Mt 28, 1-8).
2.     Âm mưu lừa đảo, dùng tiền mua chuộc lính canh làm chứng gian:
Khi được đội lính canh báo cáo hiện tình nguy cấp, và không còn có thể cứu vãn : Ông Giêsu không còn ở trong mồ, “các thượng tế liền họp với các kỳ mục ; sau khi bàn bạc, họ cho lính một số tiền lớn và bảo : Các anh hãy nói như thế này : Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác. Nếu việc này đến tai quan tổng trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với quan và lo cho các anh được vô sự. Lính đã nhận tiền và làm theo lời họ dạy. Câu chuyện này được phổ biến giữa ngươi Do Thái cho đến ngày nay” ( Mt 28, 12-15).
Biết không còn có thể làm gì khác, khi chính đội lính gác bị một phen “thất kinh bát đảo” khi thiên thần hiện ra, đám chủ trương giết Đức Giêsu đành bỏ tiền mua chuộc đám lính để những người này làm chứng gian hầu bảo vệ điều họ đã chụp mũ Đức Giêsu : tên phiến loạn, phạm thượng, đã bị án tử hình, chết treo trên thập giá và chôn trong mồ .
 Sau khi âm mưu thứ nhất không thành, các thượng tế, kỳ lục và Pharisêu đã thiết kế âm mưu thứ hai không kém kinh dị : dùng tiền mua chuộc đám lính để làm chứng gian, vì chứng cứ từ những người lính canh mồ sẽ có giá trị hơn tất cả các lời chứng của các nhân chứng khác, đồng thời dùng thế lực tôn giáo và quan hệ để một lần nữa bịt miệng quan tổng trấn Philatô, người đã vì sợ mà kết án tử hình người vô tội là Đức Giêsu.
Nhưng rồi tất cả âm mưu và kế hoạch chống Đức Giêsu Phục Sinh của họ đều đã hoàn toàn thất bại, và họ quay mũi dùi vào các môn đệ và bắt bớ, tiêu diệt các ngài như Phêrô và Gioan đã bị các kinh sư, kỳ mục bắt và điệu ra trước Hội Đồng để tra hỏi, ở đó Phêrô bị họ thẩm vấn về việc ông đã chữa một người tàn tật. Và trước Hội Đồng, Phêrô đã long trọng công bố : “Chính nhờ danh Đức Giêsu Kitô, người Nadarét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được chữa lành... Đấng ấy là tảng đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, chính tảng đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường. Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ, vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4,10-12).
Đức Giêsu đã sống lại cách nay đã hơn hai ngàn năm, nhưng âm mưu và kế hoạch chống sự sống lại của Ngài vẫn không ngớt sôi nổi, dữ dội bởi những người và phe nhóm quyết tiêu diệt danh thánh Giêsu trong thế giới con người. Ngày nay, người ta có mạng lưới thông tin bao trùm, hệ thống tuyên truyền tinh xảo, kỹ thuật đa năng đa hiệu để tấn công Đức Giêsu và Giáo Hội của Ngài. Họ không ngại bôi nhọ uy tín, đốn hạ danh dự, hồ đồ vu khống, tàn nhẫn lên án và ác độc dùng mọi thủ đoạn đê tiện để biến Đức Giêsu thành kẻ lừa bịp, giáo lý của Ngài thành thuốc phiện mê hoặc, và Giáo Hội của Ngài thành nhóm người cuồng tín, lạc hậu, đi ngược trào lưu văn minh của nhân loại. Và để thực hiện nhanh chóng mục tiêu trên, không gì hay hơn là đánh sụp niềm tin Đức Giêsu sống lại, bởi nếu không tin Đức Giêsu sống lại, người ta không thể tin Ngài là Thiên Chúa, và mầu nhiệm Nhập Thể của Thiên Chúa làm người là nền tảng của Đức tin Kitô giáo sẽ lập tức bị tróc rễ, lật nhào.
 Là người Kitô hữu, chúng ta ý thức mình còn nhiều khiếm khuyết, lỗi lầm và không ngừng phải đấm ngực ăn năn và đổi mới, nhưng không vì thế, chúng ta sợ hãi, bỏ cuộc, đầu hàng, tháo lui trước những tấn công của thế lực thù ghét, tiêu diệt Đức Giêsu và Giáo Hội của Ngài. 
Nhưng trong mọi tình huống không thuận lợi, chúng ta không được quên điều này, đó là chính Đức Giêsu sẽ mãi bị xỉ nhục, lên án, đóng đinh, Giáo Hội của Ngài sẽ mãi bị bách hại, ngăn cấm, và môn đệ của Ngài sẽ không ngừng bị khinh miệt, tẩy chay, bởi lời Đức Giêsu mãi đúng cho mọi thời đại : “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian đã yêu thích cái gì là của nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em ra khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em. Hãy nhớ lời Thầy nói với anh em : tôi tớ không lớn hơn chủ. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em... Họ sẽ làm những điều ấy chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai Thầy” (Ga 15,18-21).
Jorathe Nắng Tím 

THƯƠNG TÍCH THÁNH GIÁ CỦA ĐỨC GIÊSU PHỤC SINH

Tin mừng Gioan 20, 19-27 kể rất rõ : Đức Giêsu sống lại đã hiện ra cho các môn đệ với thân mình đầy các vết thương tử nạn : tay chân với dấu đinh còn rịn máu và cạnh sườn sâu hoắm bởi lưỡi đòng đâm thâu qua, đặc biệt, Ngài đã nói với Tôma, người môn đệ đã tuyên bố : Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ tay vào lỗ đinh, và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin (Ga 20,25), khi Ngài trở lại gặp toàn thể Nhóm Mười Một, tám ngày sau lần hiện ra thứ nhất không có mặt Tôma : Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin, sau khi chúc Bình An cho các ông (Ga 20,27).
Hiện ra với thương tích của khổ hình thánh giá, Đức Giêsu đã gây ngạc nhiên cho các môn đệ. Các ông ngỡ ngàng vì không thể ngờ Đức Giêsu, Thầy mình, với quyền năng Thiên Chúa đã tự sống lại từ cõi chết mà nay vẫn phải mang nguyên vẹn thương tích của cuộc khổ nạn trên thân xác phục sinh, mà đáng lẽ những thương tích ấy như dấu vết của thất bại ê chề, và chết chóc tang thương phải biến hết đi.
Sự kiện còn giữ lại trên mình những thương tích còn hằn sâu trên da thịt sau khi sống lại đặt ra cho các môn đệ Đức Giêsu một vấn đề : có thực Thầy là Thiên Chúa và đã sống lại hay chỉ là ma như Tin Mừng Luca kể lại : Đức Giêsu đứng giữa các ông và bảo : Bình an cho anh em Các ông kinh hồn bạt viá, tưởng là thấy ma. Nhưng Người nói : Sao lại hoảng hốt ? Sao lòng anh em còn ngờ vực ? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà ! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây ? (Lc 24,36-39).
Các ông không tin và hoảng hốt khi cho là ma, vì trong đầu các ông một Thiên Chúa không thể sống lại với thân xác con người đầy dấu ấn của nhục nhã, đau thương, chết chóc như vậy. Nghĩ là ma, vì những thương tích của thập giá hãi hùng, theo ý các ông, không còn được phép tồn tại trên thân thể sống lại của Con Người đã tự xưng là Thiên Chúa. 
Mang đầy đủ thương tích của thập giá khi hiện ra với các môn đệ, Đức Giêsu còn làm các ông hoài nghi, như Tin Mừng Mátthêu đã tường thuật : Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi (Mt 28,17). Hoài nghi Thầy mình đã sống lại đã đành, nhưng còn hoài nghi Thầy mình là người của Thiên Chúa sai đến, bởi nếu là người của Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa thì đã chẳng sống lại với thân xác mang dấu ấn của thất bại, và hình phạt của tội nhân bị kết án tử hình.
Đàng khác, các ông hoài nghi thiên tính của Đức Giêsu, vì nếu Ngài thực là Thiên Chúa thì thân xác phục sinh của Ngài phải sáng láng, toàn mỹ, không còn dấu vết của khổ hình, không còn dấu tích của roi đòn tra tấn, không còn dấu chỉ của con người có giới hạn, không còn dấu chứng của bạo lực bất công, nhất là không còn dấu hiệu của một con người Thiên Chúacòn phải tiếp tục đau khổ, và yếu đuối. 
Hiện ra sau khi sống lại với các môn đệ trong hình hài của con người đầy vết thương còn rướm máu, bằng chứng là môn đệ Tôma đã được chính Đức Giêsu mời thọc bàn tay vào vết thương ở cạnh sườn còn mở toang, sâu hoắm (Ga 20,27), Đức Giêsu đã làm các môn đệ của Ngài ngao ngán thất vọng, và không tin. Thánh sử Máccô đã ghi lại rất chi tiết và sống động : Người tỏ mình ra cho Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông đã không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người, sau khi Người sống lại (Mc 16,14).
Thực vậy, các môn đệ đã không tin Đức Giêsu là Thiên Chúa và đã tự mình sống lại từ cõi chết, nên chuyện các ông quên những lời Ngài  báo trước về cái chết và sống lại của Ngài đãđược các ông để ngoài tai, không những vì không muốn nghe, mà còn vì các ông muốn Đức Giêsu, nếu phải chết và sống lại, thì phải sống lại theo kiểu của một Thiên Chúa, nghiã là Ngài phải ngự giá uy nghi, sáng láng, oai phong lẫm liệt, có triều thần thiên quốc quây quần thờ lậy, hay ít nhất cũng phải hoành tráng như lần biến hình trên núi Tabo trước mặt Phêrô, Giacôbê, Gioan, khi dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng (Mt 17,1-2). Nhưng hôm nay, khi Ngài hiện ra, các ông bàng hoàng, bỡ ngỡ nhận ra Ngài, tuy sống lại từ cõi chết với quyền năng của Thiên Chúa, mà sao vẫn nhem nhuốc hình hài con người, và nhớp nhúa máu me các vết thương của khổ hình thánh giá.
Hình ảnh hiện ra sau khi sống lại của Đức Giêsu đã làm các ông choáng, vì tận thâm tâm, không ai trong các ông  muốn nhớ lại cảnh Con Người vác thánh giá dưới những trận mưa roi của lính gác, miệng liên hồi la ó tục tĩu hối thúc phạm nhân đi nhanh hơn đến nơi thi hành án tử ; không người nào muốn nhìn lại cảnh Thiên Chúa làm người  chịu đóng đinh trần truồng ô nhục trước những diễu cợt, khinh mạn của bàn dân thiên hạ ; không môn đệ nào muốn nghe kể lại con đường lên Giêrusalem để chịu khổ hình và đóng đinh của Thầy.
Điều các ông môn đệ muốn và chờ đợi ở Đức Giêsu Phục Sinh là một Thiên Chúa trăm phần trăm, không dính dáng đến con người nhếch nhác, tang thương, đau khổ để trước hết tỏ cho các chức sắc đạo đời Do Thái và quan quân Rôma là những người đã dính máu Con Thiên Chúa biết họ đã sai lầm, sau đó là hình phạt tương xứng với tội đã lên án và đóng đinh Thiên Chúa cho từng người.
Tắt một lời, ước mong Phục Sinh nếu có nơi các môn đệ sẽ là niềm mong ước Thầy sống lại trong hình hài, dung mạo, và quyền năng xét xử, luận phạt của Thiên Chúa oai hùng, dũng mạnh ; đồng thời, Ngài sẽ thực hiện quyền thống trị muôn dân muôn nước trên lãnh thổ, địa lý hữu hình, và tất nhiên các môn đệ sẽ là những người cùng thống trị muôn dân với Ngài. Đó là hình ảnh Đức Giêsu Phục Sinh có trong đầu các môn đệ, khi các ông nghe kháo láo Thầy đã sống lại, bởi não trạng làm quan lớn cai trị trong vương quốc của Thầy mà hai anh em, con ông Dêbêđê đã có lần bộc lộ và gây tranh cãi nẩy lửa giữa các môn đệ đã không dễ được gột rửa trong tâm trí các ông, nhưng vẫn âm ỉ, tiềm tàng và nay có cơ hội bùng phát, khi Đức Giêsu sống lại (Mt 20,20-23).  
Tin Mừng kể lại Đức Giêsu đã sống lại và hiện ra với rất nhiều người. Riêng với Nhóm Mười Một, Ngài đã hiện ra với hình hài con người còn nguyên vẹn thương tích của khổ hình thánh giá. Sự kiện này không phải ngẫu nhên hay không mang một ý nghĩa, trái lại, tất cả nằm trong ý muốn của Đức Giêsu Phục Sinh, Đấng đã muốn nói với Nhóm Mười Một và với tất cả những người tin và đi theo Ngài :
1.   Ngài là Thiên Chúa làm người và tiếp tục ở với con người cho đến tận thế, vì tên Ngài là EMMANUEL, Thiên Chúa ở với chúng ta.
Thiên Chúa làm người là Đức Giêsu đã không từ bỏ con người sau khi sống lại từ cõi chết, nhưng quyết định ở lại đến cùng với con người, đến  tận cùng của thời gian, đến cùng tận mọi ngõ ngách đường đời. Chính vì thế, sự sống lại của Đức Giêsu không chấm dứt hay cắt đứt sự có mặt của Thiên Chúa làm người và ở giữa con người trong dòng lịch sử vẫn đều trôi từng ngày của con người cho đến giây phút cuối cùng của lịch sử ấy.
Khi hiện ra với thân xác đầy vết thương của cuộc tử nạn, Đức Giêsu khẳng định Ngài là Thiên Chúa làm người đã chết, và sống lại bằng quyền năng của Thiên Chúa, để tiếp tục có mặt trong thế giới với hình hài, dung mạo của Thiên Chúa làm người đã chịu khổ hình, chết đóng đinh và sống lại với nguyên vẹn thân xác của thập giá cứu độ.
Đã không có gì khác biệt giữa Đức Giêsu Phục Sinh và Đức Giêsu dong duổi trên đường truyền giáo, bởi chỉ có một Đức Giêsu, nếu có khác biệt thì đó chính là những thương tích thánh giá trên thân thể của Ngài, như dấu ấn của tình yêu đến cùng và hiến lễ tình yêu toàn thiêu, khi Thiên Chúa làm người hiến mạng sống cho nhân loại mình yêu.     
Với thân xác phục sinh còn nguyên vẹn thương tích tử nạn, Đức Giêsu cho chúng ta biết Ngài vẫn là Thiên Chúa làm ngườiđể cứu độ người có tội ; Ngài vẫn  Thiên Chúa làm người giàu lòng xót thương, vì thương xót mà thân xác phủ kín lỗ đinh, lưỡi đòng và vô số vết roi hằn sâu da thịt ; Ngài vẫn là Thiên Chúa làm ngườiđể cảm thương, chia sẻ những đau khổ của con người, khi giữ những vết thương rướm máu nhục nhằn của người nghèo đói trên đôi tay, những loang lổ bất công của người bị áp bức, bóc lột ở bàn chân, và những lở loét bất hạnh của đời người bên cạnh sườn bị đâm thủng trên thân xác chịu đóng đinh.
Tất cả điều này được minh chứng hùng hồn và được bảo đảm vững chắc qua lời hứa của Đức Giêsu khi hiện ra với các môn đệ tại Galilê sau khi sống lại : Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế (Mt 28,20).
2.   Hiện ra với thân xác đầy thương tích tử nạn, Đức Giêsu muốn sai các môn đệ đi rao giảng một Thiên Chúa làm người chịu đóng đinh :
Các Tin Mừng đều ghi lại sứ mệnh được sai đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy (Mt 28,19) mà Đức Giêsu trao phó cho Nhóm Mười Một trong bối cảnh Ngài hiện ra sau khi sống lại với thân xác đầy thương tích tử nạn.
Qua đó, Ngài muốn các ông chỉ loan báo một mình Ngài là Đức Kitô chịu đóng đinh, vì chỉ Đức Kitô chịu đóng đinh mới  đáng được loan báo, bởi  duy nhất một mình Ngài đã vâng phục Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá (Pl 2,8),  nên đã được Chúa Cha tôn vinh, như thánh Phaolô đã qủa quyết : Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái qùy, và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng : Đức Giêsu Kitô là Chúa (Pl 2,9-11). Trong thư gửi giáo đoàn Côrintô, thánh tông đồ dân ngoại còn nhấn mạnh : Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đức Kitô chịu đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ (1Cr 1,22-23). 
Sống lại và hiện ra với thân xác còn nguyên thương tích và sai đi làm chứng về mình (Lc 24,48), Đức Giêsu muốn các môn đệ làm chứng về mầu nhiệm thánh giá, mầu nhiệm của Thiên Chúa làm người đã chết cho con người để cứu chuộc con người.
Như thế, nội dung của rao giảng, cũng như chứng cứ, chứng từ đáng tin cậy mà các môn đệ phải làm chứng chính là Đức Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại với thân xác bầm tím, đầy những thương tích của khổ hình thánh giá cứu độ.
Và qủa thực, sẽ không có lời chứng nào có giá trị sinh ơn cứu sống ngoài lời chứng về Đức Giêsu đã chết và đã sống lại mình đầy thương tích ; cũng sẽ không có tông đồ, thừa sai, nhà truyền giáo nếu Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người chịu đóng đinh không được loan báo.
3.   Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với thương tích tử nạn muốn nói với các môn đệ của Ngài : Hãy mang lấy  thương tích của thánh giá, khi được sai đi:
a.   Ngài muốn các ông mang lấy thương tích của thánh giá, nghĩa là chia sẻ khổ đau với Ngài, để có thể cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ, và chung phần vinh quang với Ngài, như thánh Phaolô đã nhắn nhủ người con thiêng liêng Timôthê: Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người (2 Tm 2,11-12).
b.   Ngài muốn các môn đệ đi đến muôn dân với tất cả thân phận bất toàn của con người, nghĩa là đến với anh em như mình là, không giả hình, diêm dúa hoá trang, không giấu giếm che đậy thiếu sót, bất toàn. Đến với mọi người bằng tấm chân tình, bằng sự thật của con người mỏng dòn mang trong mình bình sành qúy giá là Tin Mừng. Đến với người khác trong tâm tình và tư thế của người anh em cũng đau khổ như họ, cũng chịu thử thách như họ, cũng bị cám dỗ, và sa ngã như họ ; cũng nặng lòng ghen tuông, đố kỵ, nhỏ nhen, ích kỷ như họ ; cũng mình đầy thương tích của yếu đuối, lỗi lầm như họ và chỉ dám đặt hết hy vọng ở Đức Kitô chịu đóng đinh, với lời hứa của Ngài : Ơn Ta đủ cho con (2 Cr 12,9).
 Như thế, người môn đệ Đức Giêsu vừa mang thương tích của thánh giá để nhận lấy vào thân cho đủ mức những cực hình còn thiếu nơi Đức Kitô cho lợi ích của Thân Thể Người là Hội Thánh (Cl 1,24), và trở nên đồng hình đồng dạng với Thầy hầu góp phần cứu rỗi chính mình và anh em, vừa mang lấy thương tích của tội lỗi, sai phạm của chính mình để không kiêu căng ảo tưởng mình là  thánh thiện, hoàn hảo, không cao ngạo khinh dể, chối từ anh em, nhưng biết cảm thương người anh em yếu đuối, biết ân cần đỡ dậy người chị em ngã qụy dưới gánh nặng của cám dỗ, biết chia sẻ thiếu sót, khiếm khuyết của mọi người, bởi chính mình cũng yếu đuối, tội lụy, thân xác mình cũng phủ đầy những dấu vết của sai phạm, dầy kín những dấu chứng của phản bội, vô ơn, chằng chịt đan dệt vô số dấu tích của thiếu sót, lỗi lầm.
Mang trong mình thương tích của yếu đuối, người môn đệ sẽ không ngã lòng khi gục ngã trên đường rao giảng Tin Mừng, bởi ý thức thân phận hèn yếu, dòn mỏng và hồng ân được sai đi như tôi tớ bất xứng và vô ích sẽ cho người môn đệ có lòng khiêm tốn sức mạnh của Đức Kitô Phục Sinh để đứng lên, bắt đầu lại. Mang trong mình thương tích của đau khổ do bất công và bạo lực trong cuộc sống, người môn đệ sẽ không vô cảm trước khổ đau của người nghèo bị áp bức, bấn loạn của người bị trấn lột, và tủi buồn của người bị vu khống, hàm oan. Sau cùng, nhờ mang trong mình thương tích của người có tội cần được xót thương, người môn đệ sẽ biết thương xót mọi người, vì biết : cả người được sai đi rao giảng, và người được rao giảng đều là những con người bất toàn, bất xứng, mình đầy thương tích tội lỗi, bất xứng, bất toàn và luôn cần Lòng Thương Xót của Đức Kitô, Đấng chịu đóng đinh giầu lòng thương xót chữa lành.
Xin cho chúng con đức tin để can đảm và mau mắn lên đường với Đức Giêsu sống lại mình đầy thương tích, để loan báo Đức Giêsu chịu đóng đinh, bằng chính con người được mang thương tích Thánh Giá cứu độ của Đức Giêsu và thương tích tội lỗi, yếu đuối của riêng mình.
Jorathe Nắng Tím