TÔN GIÁO
Không
có một định nghiã hoàn chỉnh của từ “Tôn Giáo” cho tất cả các tôn giáo, bởi mỗi
tôn giáo đều có những đặc điểm khác nhau. Thí dụ: có những tôn giáo tuy được gọi là tôn giáo, nhưng không đề cập đến
Thượng Đế hay thần thánh, trong khi từ Tôn Giáo, theo nguyên ngữ latinh RELIGIO
có nghiã: tương quan, liên đới giữa Thiên Chúa và con người. Vì thế,
trong bài chia sẻ này, chúng ta sẽ tương đối hoá từ Tôn Giáo, và không nhất thiết
áp dụng chặt chẽ định nghĩa Tôn Giáo theo nguyên ngữ latinh cho tất cả các tôn
giáo được trình bầy.
A. Một số tôn giáo lớn:
1.
Tôn
giáo không có Thượng Đế:
Đó
là những tôn giáo mang tên “tôn giáo”, nhưng hoàn toàn không bàn đến chuyện thần
thánh, thượng đế, không bận tâm đến những chuyện siêu nhiên ngoài cuộc đời, không
quan tâm đến những gì ở ngoài quỹ đạo cuộc sống, cùng lắm chỉ điểm phớt qua, mà
không đi sâu vào lãnh vực siêu nhiên, cũng không đưa ra những giải đáp, phương án
giải quyết những vấn nạn thuộc thế giới bên kia của con người bằng dựa vào một
quyền lực thiêng liêng.
Ở
đây chỉ xin nêu ra hai tôn giáo điển hình không thần thánh, thượng đế là Khổng
Giáo và Phật Giáo.
a. Khổng
Giáo:
Khổng
giáo xuất hiện vào thế kỷ thứ V trước công nguyên ở Trung Quốc, sáng lập bởi Khổng
Tử (551- 479 trước CN), chủ trương thiết lập một trật tự xã hội hoàn hảo, ở đó,
mỗi người đều có chỗ của mình, và nghiã vụ phải chu toàn đối với người khác, bổn
phận phải làm tròn đối với xã hội. Tất cả đều được lập trình và hầu như bất di
bất dịch, chẳng hạn người phụ nữ trong xã hội Khổng Mạnh, họ sẽ phải đi theo
quy trình: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử, nghiã là còn bé
ở nhà thì tùng phục cha mẹ, lấy chồng thì theo chồng, chồng chết thì lệ thuộc
con, mà không khoảnh khắc nào của cuộc sống được độc lập, riêng tư.
Mục
tiêu của Khổng Giáo là thiết lập và duy trì một xã hội trật tự, nề nếp, gồm những
người sống theo lý tưởng làm người có Nhân, Lễ, Nghiã, Trí, Tín. Khi sống theo
khuôn khổ được thiết kế, luật lệ được quy định, người ta sẽ trở thành người tử
tế và xã hội sẽ bình yên.
Như
thế, Khổng Giáo chỉ nhằm giúp con người sống luân lý làm người, hành động theo
lương tâm, nhân ái, nhân đạo trong tương quan giữa người với người, mà không bàn
về Thiên Chúa, Thượng Đế, mặc dù có nhắc đến Trời, nhưng chỉ như một ý niệm không
mấy rõ rệt.
b.
Phật
Giáo:
Bên
cạnh là Phật Giáo xuất hiện tại Ấn Độ cũng vào thế kỷ thứ V trước công nguyên. Phật
Giáo không chủ trương giải quyết những vấn đề “ngoài con người, nghiã là không
lấn sang phạm vi siêu nhiên như đi tìm Thiên Chúa, hay Thượng Đế nào đó, cũng
không đặt vấn đề của thế giới vô hình, thiêng liêng, ngoại trừ vấn đề luân hồi,
đầu thai, nhưng ngay cả vấn đề có tính “siêu nhiên” này cũng vẫn không ra khỏi
lãnh giới của con người, và luôn thuộc về con người, mà không cần sự can thiệp
của thần thánh, hay thượng đế nào.
Vị
sáng lập Phật Giáo là Đức Thích Ca Mâu Ni. Ngài là một người, một hoàng tử, và
luôn luôn nhận mình là con người, chỉ khác ở chỗ đã giác ngộ. Thấy cuộc đời là
bể dâu, biển khổ và đời người dệt nên bởi Tứ Khổ: Sinh, Lão, Bệnh, Tử. Đức Phật
tự đi tìm phương án để giải thoát chúng sinh, và ngài đã tìm thấy giải đáp, đó
là dục vọng, lòng ham muốn đã làm con người khổ. Chính dục vọng, lòng ham muốn
làm quay quắt tâm can, úa tàn hạnh phúc, nên để hết khổ, con người chỉ còn cách
diệt dục, bỏ đi lòng ham muốn.
Bàn
về cuộc sống sau cái chết, Đức Phật cho rằng nguyên tắc Nhân Qủa sẽ là đáp số đúng
cho vấn đề: nếu ăn ngay ở lành, nếu sống nhân ái, hoà thuận, yêu thương, nếu rộng
lòng giúp đỡ người cô thế, nghèo hèn, con người sẽ nhận về phần phúc và chính
phúc đó sẽ biến đổi nghiệp của mỗi người theo hướng tích cực, nghiã là nghiệp sẽ
cao hơn, tốt hơn, lành hơn trong kiếp tới. Trái lại, kiếp này sống gian tham, độc
ác thì kiếp sau sẽ phải trả bằng mang vào một nghiệp xấu, hèn hạ, khổ sở, bất hạnh
hơn kiếp này… Điều đặc biệt ở Phật Giáo là không ai có thể can dự vào nghiệp của
người khác, nhưng mỗi người tự quyết định phúc họa của mình, cũng như tự định đoạt
cho mình nghiệp của kiếp sau.
Vì
thế, giáo lý nguyên thủy của Phật Giáo không có chuyện xin Đức Phật cầu thay
nguyện giúp, cũng không có chuyện khấn vái, cầu xin “thần thánh”, bởi giáo lý
chủ trương chính con người làm nên phận số của mình, quyết định nghiệp của mình
theo Nhân Quả mà không cậy dựa vào thần thánh nào ở cõi cao siêu phù trợ, bênh đỡ.
2.
Tôn
giáo đa thần:
Ấn
Độ giáo tin vào nhiều “vị thần” được xem như những khuôn mặt khác nhau của cùng
một thực thể thiêng liêng là Brahman. Có rất nhiều vị thần được thờ trong Ấn Độ
giáo, trong số đó có ba vị thần chính: Brahma - Thần tạo dựng, Vishnu - Thần bảo
trì, và Shiva - Thần hủy hoại.
Ấn Độ giáo tin đầu thai, luân hồi, và hạnh
phúc lớn nhất của con người là thoát khỏi vòng luân hồi, đầu thai để đạt đến tình
trạng hoàn toàn được giải thoát gọi là Nirvana.
Xuất
hiện 1500 năm trước công nguyên với khoảng 900 triệu tín hữu, chiếm 80% dân số Ấn
Độ.
3.
Tôn
Giáo độc thần:
Chúng
ta tạm dùng từ “Thiên Chúa” để chỉ Đấng Thiêng Liêng có những thuộc tính như vô
cùng quyền năng, vô cùng thánh thiện, vô cùng dũng mạnh, vô cùng chính trực, vô
cùng khôn ngoan, thông biết mọi sự, tạo dựng mọi loài, thưởng phạt công bình,
thương xót loài người, vinh quang tuyệt đối, Cội Nguồn và Cùng Đích…
Những
tôn giáo độc thần tôn thờ Thiên Chúa duy nhất như Do Thái Giáo, Hồi Giáo, Kitô
Giáo, nhưng riêng Kitô Giáo có những khác biệt đối với cả Do Thái Giáo và Hồi Giáo. Vì thế, riêng trong phần “tôn giáo
có Thiên Chúa duy nhất”, chúng ta chỉ đề cập đến Do Thái Giáo và Hồi Giáo.
a.
Do Thái
Giáo:
Do
Thái Giáo được khai sinh từ khi Giavê Thiên Chúa tuyển chọn Ápraham làm tổ phụ của
dân riêng Ngài muốn thành lập. Dân này có tên Israel, và Cựu Ước vừa là kinh thánh
vừa là lịch sử của tôn giáo, dân tộc Do Thái. Sở dĩ vừa là kinh thánh vừa là lịch
sử, vì dân tộc Do Thái cũng là tôn giáo Do Thái, nghiã là tất cả người Do Thái đều
là tín hữu Do Thái Giáo. Điều này không còn đúng trăm phần trăm, kể từ khi Đức
Giêsu, người Do Thái, quê Nadarét rao giảng một tôn giáo mới bắt nguồn từ Do Thái
giáo, cách nay 2020 năm.
Kinh
Thánh của Do Thái giáo ghi lại những biến cố, giai đoạn lịch sử, tiến trình hình
thành từ bộ lạc đến vương quốc hùng mạnh, rồi bị lưu đầy cơ cực, cùng những bài
giáo lý, giáo huấn của các ngôn sứ gồm đủ thể loại.
Người
tín hữu Do Thái tin thờ Thiên Chúa Giavê, Đấng đã chọn họ làm dân riêng và đã lập
với họ một giao ước: Ngài là Thiên Chúa của họ, và họ là dân của Ngài. Trung tín
với giao ước và Lời Hứa, Thiên Chúa Giavê đã cứu họ thoát khỏi ách nô lệ của Ai
Cập, khi sai Môsê đi giải phóng và đưa họ về đất mà Thiên Chúa Giavê đã hứa ban,
và trong mọi tình huống, hoàn cảnh dù thê lương, bi thảm đến đâu, Thiên Chúa
Giavê vẫn luôn trung tín với giao ước và phù trợ họ như dân riêng của Ngài.
Mười
Điều Răn được Thiên Chúa Giavê ban cho dân qua ông Môsê trên núi Xinai là hiến
pháp của dân Do Thái, và nghi thức “cắt bì” các con trai là dấu chỉ của giao ước
thánh thiện đó.
b.
Hồi Giáo:
Từ
thế kỷ thứ VII, Hồi Giáo xuất hiện ở Arabi, với ngôn sứ Mahômét được coi là ngôn
sứ cuối cùng của Thiên Chúa Allah. Đức Allah ban giáo lý của ngài cho ngôn sứ
Mahômét và được cẩn thận ghi chép, gìn
giữ trong kinh Coran. Hồi Giáo tin thờ một
Thiên Chúa duy nhất, có nguồn gốc từ Ápraham, người được Thiên Chúa kêu gọi và
trở thành cha của những kẻ tin.
Hồi
Giáo là tôn giáo lớn thứ hai với khoảng 24% dân số thế giới, sau Thiên Chúa giáo
và trước Ấn Độ giáo.
4.
Kitô
Giáo:
Gọi
là Kitô giáo, vì các tôn giáo này tin thờ Đức Giêsu Kitô, người Do Thái, có mặt
vào thế kỷ thứ nhất ở Palestina. Ngài xuất thân từ một gia đình ở Nadarét, miền
Giuđê. Cha mẹ Ngài là ông Giuse và bà Maria. Tín hữu Kitô giáo tin thờ Ngài là Thiên Chúa nhập thể làm người.
Đức
Giêsu Kitô là người Do Thái, gia đình Ngài cũng như Ngài là những tín hữu Do Thái
đạo đức. Vì thế, Kitô giáo do Ngài thiết lập bắt nguồn từ Do Thái giáo được xem như một chuẩn bị cho Kitô giáo của Ngài.
Ngoài
Công Giáo còn Chính Thống Giáo tách ra khỏi Công Giáo từ năm 1054, và Tin Lành
ly khai khỏi Công Giáo vào thế kỷ XVI với Martin Luther (1483-1546).
B. Trước Vấn Đề Chọn Lựa Tôn
Giáo:
Trước
tôn giáo, có nhiều chọn lựa và thái độ khác nhau, vì tín ngưỡng, tôn giáo thuộc
quyền tự do cá nhân, mà không ai, không tổ chức, chế độ nào có quyền ép buộc
hay tước đọat quền căn bản thiêng liêng này.
Chính
vì tự do chọn lựa, nên mỗi người có suy nghĩ, thái độ và chọn lựa khác nhau trước
vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo.
Có
người từ tấm bé đến tuổi già không bao giờ đặt vấn đề tôn giáo, và vui vẻ đi
theo tôn giáo của ông bà, cha mẹ, vì coi đó là bổn phận trung thành của con cháu
với truyền thống gia đình, gia tộc, nên việc cải đạo, tức thay đổi tôn giáo đối
với họ là việc làm bị xem như hành vi “phản bội tổ tiên” không thể chấp nhận được.
Với những người này, tôn giáo không là mối bận tâm lớn, nên hầu như không mấy
khi được đặt thành vấn đề và tìm hiểu sâu rộng.
Có
người sinh ra trong gia đình không tôn giáo, nên đến tuổi lớn, đã tìm cho mình
một tôn giáo, khi cảm thấy nhu cầu tâm linh hối thúc. Họ có thể xin theo vì tình
cờ biết một tôn giáo nào đó qua bạn bè, hoặc ấn tượng trước giáo lý, hay tín hữu của tôn giáo đó.
Có
người theo một tôn giáo vì đòi hỏi của xã hội, gia đình như theo đạo của vợ, hoặc
chồng, theo đạo của ông chủ để có vị thế tốt hơn trong nghề nghiệp, theo đạo của
đa số dân chúng trong vùng để tạo ảnh hưởng và dễ tiến thân trên đường chính trị.
Có
người tin theo một tôn giáo, vì Thiên Chúa, hay vị thần, đấng thánh của tôn giáo
đó đã “làm phép lạ” cứu chữa, giải cứu họ trong một trường hợp cực kỳ khó khăn,
nguy hiểm nào đó. Và để tỏ lòng biết ơn, họ chọn tôn giáo đã đem lại cho họ và người
thân may mắn, phúc lộc.
Có
người tìm tôn giáo không vì tin cho bằng vì sợ: sợ khi gặp gian truân, thử thách
không biết kêu cầu ai, nài xin Đấng nào phù hộ; sợ chết sẽ không được lên thiên
đàng vì không Đấng thiêng liêng nào cứu
giúp; sợ ở thế giới bên kia cô thân cô thế, cô độc, cô đơn, không đồng đạo
chở che, không cộng đoàn bênh đỡ. Tóm lại, vì sợ cuộc sống bấp bênh, sợ không
biết đi đâu, về đâu giờ chết, nên phải tìm
cho mình một tôn giáo như bảo hiểm an toàn.
Có
người tìm tôn giáo vì cần. Cần có tôn giáo để bớt lo âu, bớt thấy tâm hồn trống
trải trước khát vọng tuyệt đối, bớt quay quắt trước ước mơ bao la, vô tận đêm
ngày cuồn cuộn dâng lên trong tim óc. Họ đã đi tìm trong thế giới vật chất, hữu
hình những đáp số, nhưng không đáp số nào được coi là thoả đáng đối với nhu cầu
tâm linh, để tâm hồn họ được toại nguyện, an bình.
Cũng
có người chọn tôn giáo làm khí cụ, phương tiện cho mục đích phi nhân, như nhiều
tổ chức khủng bố thuần túy đã nhận mình là tôn giáo này, tôn giáo nọ để thực hiện
những cuộc khủng bố đẫm máu cho chủ trương và mục đích hoàn toàn chính trị. Tôn
giáo trong trường hợp này chỉ là bung xung, chiêu bài, mặt nạ, vỏ bọc bên ngoài,
mà không mang một giá trị tâm linh nào.
Như
thế, vì tự do chọn lựa, nên cửa ngõ các tôn giáo đều mở rộng, để mỗi người hoàn
toàn tự do bước vào tìm hiểu và quyết định, theo tiêu chí riêng: có người đi đạo
vì đạo mang lại nhiều lợi ích, có người theo đạo vì có thể xử dụng uy tín, ảnh
hưởng của đạo cho đường tiến thân, có người đi đạo vì thời thế, hoàn cảnh, nhưng
cũng có rất nhiều người đi đạo vì TIN, theo đạo vì muốn TÌM GẶP Đấng mà họ đi tìm,
để một khi đã Tin và đã Tìm Gặp, họ nhận được ơn Bình An là Hạnh Phúc viên mãn
cho cả đời này và đời sau, đúng như ý nghĩa đích thực của tôn giáo: liên đới, gặp
gỡ giữa Thiên Chúa và con người.
Thực
vậy, trước mặt chúng ta, các tôn giáo như những con thuyền đưa con người vượt “biển
đời” nhiều sóng gió để đến bờ bên kia là cuộc sống hạnh phúc, bình an, sau khi đi
hết hành trình dương thế này. Chúng ta được phép quan sát, tìm hiểu từng con
thuyền, để biết thuyền nào có đủ khả năng vượt sóng, đủ bảo đảm an toàn đưa ta
vượt biển an toàn, đến bến bình an. Bởi có những tôn giáo mà giáo lý thiếu nhất
thống, không chặt chẽ, tất nhiên không thể giải đáp toàn phần, toàn diện những vấn
đề của con người, mà chỉ một phần; có tôn giáo chỉ giải quyết những vấn đề nhân
sinh, mà không giải mã được những ẩn số của đời sau; có tôn giáo chỉ chủ trương
luân lý làm người, mà không nói gì đến những khắc khoải siêu nhiên của tâm hồn
con người. Đó là chưa kể vô số những “giáo phái” sáng lập bởi những nhân vật có
tâm lý bất bình thường, với “giáo lý” cục bộ, kỳ thị, không chỉ phản nhân văn,
mà còn nguy hại cho sự sống và nhân quyền, như những giáo phái chủ trương “trụy
lạc tình dục, lọan luân và tự sát tập thể”.
Tóm
lại, không ai sống “vô thần” mà hạnh phúc, vì một lý do đơn giản: con người là
con vật có tín ngưỡng, có niềm tin, có tôn giáo, vì không con người nào dễ dàng
lọai bỏ được linh hồn, và không ai bịt miệng được linh hồn, khi linh hồn lên tiếng
đòi hỏi nhu cầu tâm linh. Vì thế, tránh đối diện vấn đề tâm linh, lọại bỏ nhu cầu
thiêng liêng của linh hồn, con người sẽ bất hạnh trăm bề, và không thể là người
hạnh phúc, trong khi hạnh phúc là mục tiêu con người hằng mơ ước, đi tìm.
Để
kết luận, người viết xin được vắn tắt chia sẻ hành trình đón nhận đức tin Công
Giáo của mình, với ước mong qúy bạn trẻ tìm được chút ít kinh nghiệm của một
người anh lớn tuổi đã đi gần hết đường đời.
Tôi
sinh trưởng từ gia đình công giáo gốc, nghiã là từ rất nhiều đời, gia đình tôi đã
theo đạo Công Giáo. Lớn lên trong xứ đạo, tôi đi đạo như tất cả mọi giáo dân
trong xứ, và suốt những năm tháng ấu thơ rồi niên thiếu, đi đạo với tôi chỉ là
sống ngay lành, lương thiện, đi lễ hằng ngày, đọc kinh mỗi tối để “khi chết khỏi
phải sa hoả ngục”, vì thiên đàng, hoả ngục là giáo lý được “ông quản, bà trương”
nhồi nhét nhiều hơn cả. Và thuở ấy, tôi đi đạo trong tâm trạng lấm lét, sợ hãi
Thiên Chúa, và Đức Giêsu với tôi vẫn còn rất xa lạ.
Sau
này càng lớn, tôi càng khám phá dung mạo Đức Giêsu và Ngài hấp dẫn, lỗi cuốn tôi.
Ngài lôi cuốn tôi, vì Ngài là Thiên Chúa làm người:
Thiên Chúa xuống trần gian mặc lấy xác phàm và sống như con người, chia sẻ đến
tận cùng thân phận con người, kể cả đau khổ và cái chết, trong khi các vị sáng
lập tôn giáo khác chỉ là con người như Đức Phật, hoặc con người được chọn làm
ngôn sứ như ngài Mahômét.
Riêng
một mình Đức Giêsu thì vừa là Thiên Chúa
vừa là con người, nên những gì Ngài mặc khải về Thiên Chúa chắc chắn sẽ đúng,
vì chỉ Thiên Chúa mới biết Thiên Chúa là ai, biết Thiên Chúa muốn gì, biết Thiên
Chúa hoạt động thế nào… Cũng vì là Thiên Chúa, nên những gì thuộc thế giới siêu
nhiên, những gì vượt xa tầm hiểu biết, suy đoán của con người thì Ngài đều biết,
và cho con người biết như ý nghiã và giá trị của đau khổ, sự chết, sự sống lại
của con người, và thiên đàng, hỏa ngục.
Ngài còn hấp dẫn tôi vì Ngài là con người.
Là con người nên tôi thấy Ngài rất gần gũi và thương yêu con người. Tin Mừng mặc
khải cho tôi Ngài không từ bỏ, xa lánh, kỳ thị bất cứ ai, dù là người tội lỗi công
khai bị xã hội lên án, tẩy chay, khinh miệt, nhưng thân thiện, cảm thông, thương
xót và cứu chữa tận tình hết mọi người đến với Ngài.
Tôi
say mê cung cách khiêm tốn, chịu đựng của Ngài trước những xúc phạm của người
khác, và lòng bao dung, cao thượng của Ngài.
Tôi
cũng thấy và cảm nghiệm hạnh phúc khi sống theo giáo huấn Yêu Thương của Ngài,
vì Ngài là Tình Yêu. Chính vì là Tình Yêu nên Ngài chỉ có thể yêu thương, dung
thứ và quên hết lỗi lầm, tội lụy của con người, miễn con người nhận mình là tội
nhân chạy đến xin Ngài thương xót.
Ngày
xưa, tôi rất sợ Thiên Chúa, nhưng từ khi được “sống gần” Ngài, tôi không sợ như
tên nô lệ sợ ông chủ, như tội nhân sợ quan toà, cai ngục, hay như thần dân sợ
vua chúa nữa, nhưng yêu mến và tín thác ở Ngài như người con tin yêu Cha mình,
dù đời tôi thăng trầm muôn nỗi, vì yếu đuối, tội lỗi đầy mình. Tôi cũng hết lo âu,
tính toán lợi lộc, ki bo, kiếm chác, cả đến chuyện thiên đàng, hoả ngục tôi cũng
chẳng mất thời giờ quan tâm, bởi chỉ có một điều tôi dốc toàn lực để thực hiện,
đó là thực hiện Giới Răn Yêu Thương là di chúc của Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người,
Đấng tôi tin và tôn thờ, bởi tôi chỉ thấy Yêu Thương là điều Thiên Chúa đợi chờ
ở tôi, chỉ Yêu Thương mới làm cho tôi được đổi mới nên giống Ngài, chỉ Yêu Thương
tôi mới nắm chắc phần thưởng được cứu độ.
Tôi cũng say mê Đức Giêsu vì Ngài là Thiên Chúa tuyệt
đối tôn trọng tự do của mỗi người. Ngài để con người
tự nguyện tin Ngài mà không bắt buộc ai tin, để mỗi người tự chọn đi theo Ngài
mà không mồi chài, dụ dỗ. Bên cạnh đó, Ngài tín nhiệm con người khi mời gọi cộng
tác với Ngài trong mọi việc liên quan đến hạnh phúc của con người. Cũng chính vì
thế mà nhiều công trình của Ngài làm cho con người đã bị chính con người phá hoại,
làm đổ vỡ vì bất trung và bất hợp tác.
Vâng,
tôi đã đi được phần lớn hành trình cuộc đời. Cũng như Bạn, tôi đã trải qua tuổi
trẻ phân vân, do dự giữa ngã ba, ngã tư, ngã năm, ngã sáu trước niềm tin, tín
ngưỡng, tôn giáo. Tôi mong Bạn hãy bình tĩnh, bình tâm và tiếp tục tìm kiếm.
Thiên Chúa không bao giờ phụ lòng những tâm hồn thiện chí đi tìm Ngài, Thiên Chúa
không bao giờ dửng dưng, hờ hững trước những trái tim khao khát tìm gặp Ngài. Sớm
hay muộn, Ngài sẽ tự mặc khải cho Bạn
khi đến bên Bạn và mời Bạn đến thăm chỗ ở của Ngài, như đã mời nhiều người trẻ ngày
xưa đến gặp và xin theo Ngài: “Hãy đến mà
xem”, và họ đã đến xem và ở lại làm môn đệ Ngài.
Phần
tôi, cám ơn Bạn đã kiên nhẫn chia sẻ với tôi đến dòng này. Tâm tình cuối cùng tôi
muốn trao gửi Bạn, đó là sẽ đến một lúc, khi ở với Đức Giêsu và yêu mến Ngài rồi,
Bạn sẽ chẳng còn nghĩ đến chuyện đi đạo có lợi hay không có lợi, theo Đức Giêsu sướng hay khổ, mà chỉ còn lại duy nhất một
thao thức, một ước mơ, một nỗ lực, đó là: Tâm
hồn càng trống trải, vì từ bỏ những ích kỷ, ganh ghét, hận thù, cuộc sống càng đầy
tràn Thiên Chúa, và một khi được Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người ở cùng và
đồng hành, chúng ta được sống bình an, dù gian truân ngập lối và thử thách bủa
vây.
Mến
chúc Bạn gặp Đấng đang trên đường đi tìm
Bạn, để Ngài ở đâu, Bạn cũng được ở đó với Ngài.
Jorathe
Nắng Tím