Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 11 tháng 5, 2020

NGƯỜI TRẺ VÀ ĐỨC TIN (3)


                                             TÔN GIÁO
Không có một định nghiã hoàn chỉnh của từ “Tôn Giáo” cho tất cả các tôn giáo, bởi mỗi tôn giáo đều có những đặc điểm khác nhau. Thí dụ: có những tôn giáo  tuy được gọi là tôn giáo, nhưng không đề cập đến Thượng Đế hay thần thánh, trong khi từ Tôn Giáo, theo nguyên ngữ latinh RELIGIO có nghiã: tương quan, liên đới giữa Thiên Chúa và con người. Vì thế, trong bài chia sẻ này, chúng ta sẽ tương đối hoá từ Tôn Giáo, và không nhất thiết áp dụng chặt chẽ định nghĩa Tôn Giáo theo nguyên ngữ latinh cho tất cả các tôn giáo được trình bầy.
A.  Một số tôn giáo lớn:
1.   Tôn giáo không có Thượng Đế:
Đó là những tôn giáo mang tên “tôn giáo”, nhưng hoàn toàn không bàn đến chuyện thần thánh, thượng đế, không bận tâm đến những chuyện siêu nhiên ngoài cuộc đời, không quan tâm đến những gì ở ngoài quỹ đạo cuộc sống, cùng lắm chỉ điểm phớt qua, mà không đi sâu vào lãnh vực siêu nhiên, cũng không đưa ra những giải đáp, phương án giải quyết những vấn nạn thuộc thế giới bên kia của con người bằng dựa vào một quyền lực thiêng liêng.
Ở đây chỉ xin nêu ra hai tôn giáo điển hình không thần thánh, thượng đế là Khổng Giáo và Phật Giáo.
a.   Khổng Giáo:
Khổng giáo xuất hiện vào thế kỷ thứ V trước công nguyên ở Trung Quốc, sáng lập bởi Khổng Tử (551- 479 trước CN), chủ trương thiết lập một trật tự xã hội hoàn hảo, ở đó, mỗi người đều có chỗ của mình, và nghiã vụ phải chu toàn đối với người khác, bổn phận phải làm tròn đối với xã hội. Tất cả đều được lập trình và hầu như bất di bất dịch, chẳng hạn người phụ nữ trong xã hội Khổng Mạnh, họ sẽ phải đi theo quy trình: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử, nghiã là còn bé ở nhà thì tùng phục cha mẹ, lấy chồng thì theo chồng, chồng chết thì lệ thuộc con, mà không khoảnh khắc nào của cuộc sống được độc lập, riêng tư.
Mục tiêu của Khổng Giáo là thiết lập và duy trì một xã hội trật tự, nề nếp, gồm những người sống theo lý tưởng làm người có Nhân, Lễ, Nghiã, Trí, Tín. Khi sống theo khuôn khổ được thiết kế, luật lệ được quy định, người ta sẽ trở thành người tử tế và xã hội sẽ bình yên.
Như thế, Khổng Giáo chỉ nhằm giúp con người sống luân lý làm người, hành động theo lương tâm, nhân ái, nhân đạo trong tương quan giữa người với người, mà không bàn về Thiên Chúa, Thượng Đế, mặc dù có nhắc đến Trời, nhưng chỉ như một ý niệm không mấy rõ rệt.
b.   Phật Giáo:
Bên cạnh là Phật Giáo xuất hiện tại Ấn Độ cũng vào thế kỷ thứ V trước công nguyên. Phật Giáo không chủ trương giải quyết những vấn đề “ngoài con người, nghiã là không lấn sang phạm vi siêu nhiên như đi tìm Thiên Chúa, hay Thượng Đế nào đó, cũng không đặt vấn đề của thế giới vô hình, thiêng liêng, ngoại trừ vấn đề luân hồi, đầu thai, nhưng ngay cả vấn đề có tính “siêu nhiên” này cũng vẫn không ra khỏi lãnh giới của con người, và luôn thuộc về con người, mà không cần sự can thiệp của thần thánh, hay thượng đế nào.
Vị sáng lập Phật Giáo là Đức Thích Ca Mâu Ni. Ngài là một người, một hoàng tử, và luôn luôn nhận mình là con người, chỉ khác ở chỗ đã giác ngộ. Thấy cuộc đời là bể dâu, biển khổ và đời người dệt nên bởi Tứ Khổ: Sinh, Lão, Bệnh, Tử. Đức Phật tự đi tìm phương án để giải thoát chúng sinh, và ngài đã tìm thấy giải đáp, đó là dục vọng, lòng ham muốn đã làm con người khổ. Chính dục vọng, lòng ham muốn làm quay quắt tâm can, úa tàn hạnh phúc, nên để hết khổ, con người chỉ còn cách diệt dục, bỏ đi lòng ham muốn.
Bàn về cuộc sống sau cái chết, Đức Phật cho rằng nguyên tắc Nhân Qủa sẽ là đáp số đúng cho vấn đề: nếu ăn ngay ở lành, nếu sống nhân ái, hoà thuận, yêu thương, nếu rộng lòng giúp đỡ người cô thế, nghèo hèn, con người sẽ nhận về phần phúc và chính phúc đó sẽ biến đổi nghiệp của mỗi người theo hướng tích cực, nghiã là nghiệp sẽ cao hơn, tốt hơn, lành hơn trong kiếp tới. Trái lại, kiếp này sống gian tham, độc ác thì kiếp sau sẽ phải trả bằng mang vào một nghiệp xấu, hèn hạ, khổ sở, bất hạnh hơn kiếp này… Điều đặc biệt ở Phật Giáo là không ai có thể can dự vào nghiệp của người khác, nhưng mỗi người tự quyết định phúc họa của mình, cũng như tự định đoạt cho mình nghiệp của kiếp sau.
Vì thế, giáo lý nguyên thủy của Phật Giáo không có chuyện xin Đức Phật cầu thay nguyện giúp, cũng không có chuyện khấn vái, cầu xin “thần thánh”, bởi giáo lý chủ trương chính con người làm nên phận số của mình, quyết định nghiệp của mình theo Nhân Quả mà không cậy dựa vào thần thánh nào ở cõi cao siêu phù trợ, bênh đỡ.      
2.   Tôn giáo đa thần:
Ấn Độ giáo tin vào nhiều “vị thần” được xem như những khuôn mặt khác nhau của cùng một thực thể thiêng liêng là Brahman. Có rất nhiều vị thần được thờ trong Ấn Độ giáo, trong số đó có ba vị thần chính: Brahma - Thần tạo dựng, Vishnu - Thần bảo trì, và Shiva - Thần hủy hoại.
Ấn Độ giáo tin đầu thai, luân hồi, và hạnh phúc lớn nhất của con người là thoát khỏi vòng luân hồi, đầu thai để đạt đến tình trạng hoàn toàn được giải thoát gọi là Nirvana.
Xuất hiện 1500 năm trước công nguyên với khoảng 900 triệu tín hữu, chiếm 80% dân số Ấn Độ. 
3.   Tôn Giáo độc thần:
Chúng ta tạm dùng từ “Thiên Chúa” để chỉ Đấng Thiêng Liêng có những thuộc tính như vô cùng quyền năng, vô cùng thánh thiện, vô cùng dũng mạnh, vô cùng chính trực, vô cùng khôn ngoan, thông biết mọi sự, tạo dựng mọi loài, thưởng phạt công bình, thương xót loài người, vinh quang tuyệt đối, Cội Nguồn và Cùng Đích…
Những tôn giáo độc thần tôn thờ Thiên Chúa duy nhất như Do Thái Giáo, Hồi Giáo, Kitô Giáo, nhưng riêng Kitô Giáo có những khác biệt đối với cả Do Thái Giáo và  Hồi Giáo. Vì thế, riêng trong phần “tôn giáo có Thiên Chúa duy nhất”, chúng ta chỉ đề cập đến Do Thái Giáo và Hồi Giáo.
a.    Do Thái Giáo:
Do Thái Giáo được khai sinh từ khi Giavê Thiên Chúa tuyển chọn Ápraham làm tổ phụ của dân riêng Ngài muốn thành lập. Dân này có tên Israel, và Cựu Ước vừa là kinh thánh vừa là lịch sử của tôn giáo, dân tộc Do Thái. Sở dĩ vừa là kinh thánh vừa là lịch sử, vì dân tộc Do Thái cũng là tôn giáo Do Thái, nghiã là tất cả người Do Thái đều là tín hữu Do Thái Giáo. Điều này không còn đúng trăm phần trăm, kể từ khi Đức Giêsu, người Do Thái, quê Nadarét rao giảng một tôn giáo mới bắt nguồn từ Do Thái giáo, cách nay 2020 năm.
Kinh Thánh của Do Thái giáo ghi lại những biến cố, giai đoạn lịch sử, tiến trình hình thành từ bộ lạc đến vương quốc hùng mạnh, rồi bị lưu đầy cơ cực, cùng những bài giáo lý, giáo huấn của các ngôn sứ gồm đủ thể loại.  
Người tín hữu Do Thái tin thờ Thiên Chúa Giavê, Đấng đã chọn họ làm dân riêng và đã lập với họ một giao ước: Ngài là Thiên Chúa của họ, và họ là dân của Ngài. Trung tín với giao ước và Lời Hứa, Thiên Chúa Giavê đã cứu họ thoát khỏi ách nô lệ của Ai Cập, khi sai Môsê đi giải phóng và đưa họ về đất mà Thiên Chúa Giavê đã hứa ban, và trong mọi tình huống, hoàn cảnh dù thê lương, bi thảm đến đâu, Thiên Chúa Giavê vẫn luôn trung tín với giao ước và phù trợ họ như dân riêng của Ngài.
Mười Điều Răn được Thiên Chúa Giavê ban cho dân qua ông Môsê trên núi Xinai là hiến pháp của dân Do Thái, và nghi thức “cắt bì” các con trai là dấu chỉ của giao ước thánh thiện đó.
b.  Hồi Giáo:
Từ thế kỷ thứ VII, Hồi Giáo xuất hiện ở Arabi, với ngôn sứ Mahômét được coi là ngôn sứ cuối cùng của Thiên Chúa Allah. Đức Allah ban giáo lý của ngài cho ngôn sứ Mahômét và  được cẩn thận ghi chép, gìn giữ  trong kinh Coran. Hồi Giáo tin thờ một Thiên Chúa duy nhất, có nguồn gốc từ Ápraham, người được Thiên Chúa kêu gọi và trở thành cha của những kẻ tin.
Hồi Giáo là tôn giáo lớn thứ hai với khoảng 24% dân số thế giới, sau Thiên Chúa giáo và trước Ấn Độ giáo.
4.   Kitô Giáo:
Gọi là Kitô giáo, vì các tôn giáo này tin thờ Đức Giêsu Kitô, người Do Thái, có mặt vào thế kỷ thứ nhất ở Palestina. Ngài xuất thân từ một gia đình ở Nadarét, miền Giuđê. Cha mẹ Ngài là ông Giuse và bà Maria. Tín hữu Kitô giáo tin thờ Ngài là Thiên Chúa nhập thể làm người.
Đức Giêsu Kitô là người Do Thái, gia đình Ngài cũng như Ngài là những tín hữu Do Thái đạo đức. Vì thế, Kitô giáo do Ngài thiết lập bắt nguồn  từ Do Thái giáo được xem như một chuẩn bị cho Kitô giáo của Ngài.
Ngoài Công Giáo còn Chính Thống Giáo tách ra khỏi Công Giáo từ năm 1054, và Tin Lành ly khai khỏi Công Giáo vào thế kỷ XVI với Martin Luther (1483-1546).
B.  Trước Vấn Đề Chọn Lựa Tôn Giáo: 
Trước tôn giáo, có nhiều chọn lựa và thái độ khác nhau, vì tín ngưỡng, tôn giáo thuộc quyền tự do cá nhân, mà không ai, không tổ chức, chế độ nào có quyền ép buộc hay tước đọat quền căn bản thiêng liêng này.
Chính vì tự do chọn lựa, nên mỗi người có suy nghĩ, thái độ và chọn lựa khác nhau trước vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo.
Có người từ tấm bé đến tuổi già không bao giờ đặt vấn đề tôn giáo, và vui vẻ đi theo tôn giáo của ông bà, cha mẹ, vì coi đó là bổn phận trung thành của con cháu với truyền thống gia đình, gia tộc, nên việc cải đạo, tức thay đổi tôn giáo đối với họ là việc làm bị xem như hành vi “phản bội tổ tiên” không thể chấp nhận được. Với những người này, tôn giáo không là mối bận tâm lớn, nên hầu như không mấy khi được đặt thành vấn đề và tìm hiểu sâu rộng.
Có người sinh ra trong gia đình không tôn giáo, nên đến tuổi lớn, đã tìm cho mình một tôn giáo, khi cảm thấy nhu cầu tâm linh hối thúc. Họ có thể xin theo vì tình cờ biết một tôn giáo nào đó qua bạn bè, hoặc ấn tượng trước  giáo lý, hay tín hữu của tôn giáo đó.
Có người theo một tôn giáo vì đòi hỏi của xã hội, gia đình như theo đạo của vợ, hoặc chồng, theo đạo của ông chủ để có vị thế tốt hơn trong nghề nghiệp, theo đạo của đa số dân chúng trong vùng để tạo ảnh hưởng và dễ tiến thân trên đường chính trị.
Có người tin theo một tôn giáo, vì Thiên Chúa, hay vị thần, đấng thánh của tôn giáo đó đã “làm phép lạ” cứu chữa, giải cứu họ trong một trường hợp cực kỳ khó khăn, nguy hiểm nào đó. Và để tỏ lòng biết ơn, họ chọn tôn giáo đã đem lại cho họ và người thân may mắn, phúc lộc.
Có người tìm tôn giáo không vì tin cho bằng vì sợ: sợ khi gặp gian truân, thử thách không biết kêu cầu ai, nài xin Đấng nào phù hộ; sợ chết sẽ không được lên thiên đàng vì không Đấng thiêng liêng nào cứu  giúp; sợ ở thế giới bên kia cô thân cô thế, cô độc, cô đơn, không đồng đạo chở che, không cộng đoàn bênh đỡ. Tóm lại, vì sợ cuộc sống bấp bênh, sợ không biết đi đâu, về đâu  giờ chết, nên phải tìm cho mình một tôn giáo như bảo hiểm an toàn.
Có người tìm tôn giáo vì cần. Cần có tôn giáo để bớt lo âu, bớt thấy tâm hồn trống trải trước khát vọng tuyệt đối, bớt quay quắt trước ước mơ bao la, vô tận đêm ngày cuồn cuộn dâng lên trong tim óc. Họ đã đi tìm trong thế giới vật chất, hữu hình những đáp số, nhưng không đáp số nào được coi là thoả đáng đối với nhu cầu tâm linh, để tâm hồn họ được toại nguyện, an bình.
Cũng có người chọn tôn giáo làm khí cụ, phương tiện cho mục đích phi nhân, như nhiều tổ chức khủng bố thuần túy đã nhận mình là tôn giáo này, tôn giáo nọ để thực hiện những cuộc khủng bố đẫm máu cho chủ trương và mục đích hoàn toàn chính trị. Tôn giáo trong trường hợp này chỉ là bung xung, chiêu bài, mặt nạ, vỏ bọc bên ngoài, mà không mang một giá trị tâm linh nào.
Như thế, vì tự do chọn lựa, nên cửa ngõ các tôn giáo đều mở rộng, để mỗi người hoàn toàn tự do bước vào tìm hiểu và quyết định, theo tiêu chí riêng: có người đi đạo vì đạo mang lại nhiều lợi ích, có người theo đạo vì có thể xử dụng uy tín, ảnh hưởng của đạo cho đường tiến thân, có người đi đạo vì thời thế, hoàn cảnh, nhưng cũng có rất nhiều người đi đạo vì TIN, theo đạo vì muốn TÌM GẶP Đấng mà họ đi tìm, để một khi đã Tin và đã Tìm Gặp, họ nhận được ơn Bình An là Hạnh Phúc viên mãn cho cả đời này và đời sau, đúng như ý nghĩa đích thực của tôn giáo: liên đới, gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người.    
Thực vậy, trước mặt chúng ta, các tôn giáo như những con thuyền đưa con người vượt “biển đời” nhiều sóng gió để đến bờ bên kia là cuộc sống hạnh phúc, bình an, sau khi đi hết hành trình dương thế này. Chúng ta được phép quan sát, tìm hiểu từng con thuyền, để biết thuyền nào có đủ khả năng vượt sóng, đủ bảo đảm an toàn đưa ta vượt biển an toàn, đến bến bình an. Bởi có những tôn giáo mà giáo lý thiếu nhất thống, không chặt chẽ, tất nhiên không thể giải đáp toàn phần, toàn diện những vấn đề của con người, mà chỉ một phần; có tôn giáo chỉ giải quyết những vấn đề nhân sinh, mà không giải mã được những ẩn số của đời sau; có tôn giáo chỉ chủ trương luân lý làm người, mà không nói gì đến những khắc khoải siêu nhiên của tâm hồn con người. Đó là chưa kể vô số những “giáo phái” sáng lập bởi những nhân vật có tâm lý bất bình thường, với “giáo lý” cục bộ, kỳ thị, không chỉ phản nhân văn, mà còn nguy hại cho sự sống và nhân quyền, như những giáo phái chủ trương “trụy lạc tình dục, lọan luân và tự sát tập thể”.  
Tóm lại, không ai sống “vô thần” mà hạnh phúc, vì một lý do đơn giản: con người là con vật có tín ngưỡng, có niềm tin, có tôn giáo, vì không con người nào dễ dàng lọai bỏ được linh hồn, và không ai bịt miệng được linh hồn, khi linh hồn lên tiếng đòi hỏi nhu cầu tâm linh. Vì thế, tránh đối diện vấn đề tâm linh, lọại bỏ nhu cầu thiêng liêng của linh hồn, con người sẽ bất hạnh trăm bề, và không thể là người hạnh phúc, trong khi hạnh phúc là mục tiêu con người hằng mơ ước, đi tìm.  
Để kết luận, người viết xin được vắn tắt chia sẻ hành trình đón nhận đức tin Công Giáo của mình, với ước mong qúy bạn trẻ tìm được chút ít kinh nghiệm của một người anh lớn tuổi đã đi gần hết đường đời.
Tôi sinh trưởng từ gia đình công giáo gốc, nghiã là từ rất nhiều đời, gia đình tôi đã theo đạo Công Giáo. Lớn lên trong xứ đạo, tôi đi đạo như tất cả mọi giáo dân trong xứ, và suốt những năm tháng ấu thơ rồi niên thiếu, đi đạo với tôi chỉ là sống ngay lành, lương thiện, đi lễ hằng ngày, đọc kinh mỗi tối để “khi chết khỏi phải sa hoả ngục”, vì thiên đàng, hoả ngục là giáo lý được “ông quản, bà trương” nhồi nhét nhiều hơn cả. Và thuở ấy, tôi đi đạo trong tâm trạng lấm lét, sợ hãi Thiên Chúa, và Đức Giêsu với tôi vẫn còn rất xa lạ.
Sau này càng lớn, tôi càng khám phá dung mạo Đức Giêsu và Ngài hấp dẫn, lỗi cuốn tôi.
Ngài lôi cuốn tôi, vì Ngài là Thiên Chúa làm người: Thiên Chúa xuống trần gian mặc lấy xác phàm và sống như con người, chia sẻ đến tận cùng thân phận con người, kể cả đau khổ và cái chết, trong khi các vị sáng lập tôn giáo khác chỉ là con người như Đức Phật, hoặc con người được chọn làm ngôn sứ như ngài Mahômét.
Riêng một mình Đức Giêsu thì vừa là Thiên Chúa vừa là con người, nên những gì Ngài mặc khải về Thiên Chúa chắc chắn sẽ đúng, vì chỉ Thiên Chúa mới biết Thiên Chúa là ai, biết Thiên Chúa muốn gì, biết Thiên Chúa hoạt động thế nào… Cũng vì là Thiên Chúa, nên những gì thuộc thế giới siêu nhiên, những gì vượt xa tầm hiểu biết, suy đoán của con người thì Ngài đều biết, và cho con người biết như ý nghiã và giá trị của đau khổ, sự chết, sự sống lại của con người, và thiên đàng, hỏa ngục.
Ngài còn hấp dẫn tôi vì Ngài là con người. Là con người nên tôi thấy Ngài rất gần gũi và thương yêu con người. Tin Mừng mặc khải cho tôi Ngài không từ bỏ, xa lánh, kỳ thị bất cứ ai, dù là người tội lỗi công khai bị xã hội lên án, tẩy chay, khinh miệt, nhưng thân thiện, cảm thông, thương xót và cứu chữa tận tình hết mọi người đến với Ngài.
Tôi say mê cung cách khiêm tốn, chịu đựng của Ngài trước những xúc phạm của người khác, và lòng bao dung, cao thượng của Ngài.     
Tôi cũng thấy và cảm nghiệm hạnh phúc khi sống theo giáo huấn Yêu Thương của Ngài, vì Ngài là Tình Yêu. Chính vì là Tình Yêu nên Ngài chỉ có thể yêu thương, dung thứ và quên hết lỗi lầm, tội lụy của con người, miễn con người nhận mình là tội nhân chạy đến xin Ngài thương xót.
Ngày xưa, tôi rất sợ Thiên Chúa, nhưng từ khi được “sống gần” Ngài, tôi không sợ như tên nô lệ sợ ông chủ, như tội nhân sợ quan toà, cai ngục, hay như thần dân sợ vua chúa nữa, nhưng yêu mến và tín thác ở Ngài như người con tin yêu Cha mình, dù đời tôi thăng trầm muôn nỗi, vì yếu đuối, tội lỗi đầy mình. Tôi cũng hết lo âu, tính toán lợi lộc, ki bo, kiếm chác, cả đến chuyện thiên đàng, hoả ngục tôi cũng chẳng mất thời giờ quan tâm, bởi chỉ có một điều tôi dốc toàn lực để thực hiện, đó là thực hiện Giới Răn Yêu Thương là di chúc của Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người, Đấng tôi tin và tôn thờ, bởi tôi chỉ thấy Yêu Thương là điều Thiên Chúa đợi chờ ở tôi, chỉ Yêu Thương mới làm cho tôi được đổi mới nên giống Ngài, chỉ Yêu Thương tôi mới nắm chắc phần thưởng được cứu độ.
Tôi cũng say mê Đức Giêsu vì Ngài là Thiên Chúa tuyệt đối tôn trọng tự do của mỗi người. Ngài để con người tự nguyện tin Ngài mà không bắt buộc ai tin, để mỗi người tự chọn đi theo Ngài mà không mồi chài, dụ dỗ. Bên cạnh đó, Ngài tín nhiệm con người khi mời gọi cộng tác với Ngài trong mọi việc liên quan đến hạnh phúc của con người. Cũng chính vì thế mà nhiều công trình của Ngài làm cho con người đã bị chính con người phá hoại, làm đổ vỡ vì bất trung và bất hợp tác.
Vâng, tôi đã đi được phần lớn hành trình cuộc đời. Cũng như Bạn, tôi đã trải qua tuổi trẻ phân vân, do dự giữa ngã ba, ngã tư, ngã năm, ngã sáu trước niềm tin, tín ngưỡng, tôn giáo. Tôi mong Bạn hãy bình tĩnh, bình tâm và tiếp tục tìm kiếm. Thiên Chúa không bao giờ phụ lòng những tâm hồn thiện chí đi tìm Ngài, Thiên Chúa không bao giờ dửng dưng, hờ hững trước những trái tim khao khát tìm gặp Ngài. Sớm hay muộn, Ngài sẽ tự mặc khải cho Bạn khi đến bên Bạn và mời Bạn đến thăm chỗ ở của Ngài, như đã mời nhiều người trẻ ngày xưa đến gặp và xin theo Ngài: “Hãy đến mà xem”, và họ đã đến xem và ở lại làm môn đệ Ngài.
Phần tôi, cám ơn Bạn đã kiên nhẫn chia sẻ với tôi đến dòng này. Tâm tình cuối cùng tôi muốn trao gửi Bạn, đó là sẽ đến một lúc, khi ở với Đức Giêsu và yêu mến Ngài rồi, Bạn sẽ chẳng còn nghĩ đến chuyện đi đạo có lợi hay không có lợi, theo Đức Giêsu  sướng hay khổ, mà chỉ còn lại duy nhất một thao thức, một ước mơ, một nỗ lực, đó là: Tâm hồn càng trống trải, vì từ bỏ những ích kỷ, ganh ghét, hận thù, cuộc sống càng đầy tràn Thiên Chúa, và một khi được Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người ở cùng và đồng hành, chúng ta được sống bình an, dù gian truân ngập lối và thử thách bủa vây.
Mến chúc Bạn gặp Đấng đang trên đường đi tìm Bạn, để Ngài ở đâu, Bạn cũng được ở đó với Ngài.
Jorathe Nắng Tím

Chương VII: BẠN BÈ HẬU LY DỊ


Ngày xưa khi hạnh phúc ngập tràn, niềm vui  phủ kín, dấu ái mặn nồng thì bạn anh cũng là bạn em và bạn bè là niềm an ủi, nguồn vui cho mái ấm gia đình. Nay ly hôn rồi thì bạn bè mỗi người mỗi chọn lựa: có người còn qua lại thăm hỏi, cảm thông và quan tâm giúp đỡ; có người giữ thái độ bàng quan, không can dự; số đông còn lại tìm cách tránh né vì ngại phải đứng về bên này hoặc bên kia, hay không muốn  ở vào một chiến tuyến khi hôn nhân của bạn mình đổ vỡ, vợ chồng ly tan.
Chọn lựa của bạn bè trước sự kiện ly dị rất khác biệt:
1.   Chọn lựa kín đáo đồng hành, và tận tình chia sẻ:
Những người  bạn này nói ít làm nhiều. Họ không nhiều lời phê phán, dài dòng  nhận định  nguyên nhân, tiến trình và hậu qủa của hôn nhân đổ vỡ. Họ chỉ biết lặng lẽ đi bên cạnh, tề nhị chia sẻ và tận tình giúp đỡ. Họ là những người ở lại khi mọi người đã ra về, dọn dẹp chén diã khi tiệc tàn, khuân vác đồ đạc khi bạn dời nhà, nhất là ngồi hằng giờ để nghe bạn nói mà không tỏ vẻ lơ là, nhàm chán.
Âm thầm và lặng lẽ, họ trao tặng bạn chính con người họ và yêu thương bạn hết tình.  Nếu được hỏi ý kiến, họ là những người có thể làm bạn không vui vì họ trung thực, chân thành nên  nghĩ sao nói vậy, không “hoa lá cành”. Với họ, bạn có thể phải đối diện với nhiều sự thực mà bạn không dám hay không muốn. Họ là  nhà phân tích trung thực, nên có thể bạn không mấy thích họ và khó khiêm tốn để lắng nghe họ chia sẻ. Những người bạn này không nhiều và rất đáng tiếc nếu  bạn không  nhận ra những giá trị rất qúy hiếm nơi họ.
Điểm nổi bật ở họ là lòng trung thành. Họ không đặt ly dị như  cản trở của tình bạn; nghiã là bạn hạnh phúc hay bất hạnh, thành công hay thất bại, lên voi hay xuống chó, họ vẫn ở bên và một lòng yêu thương bạn. Chính vì thế, họ không tỏ thái độ gì rõ rệt trong lựa chọn và quyết định ly dị của bạn, khác với nhiều người đã tỏ ra rất tích cực, đôi khi qúa khích để tạo áp lực, ảnh hưởng trên quyết định của bạn.
Một điểm son khác của những người bạn qúy hiếm này là tính vững chãi  trong tình cảm. Nếu đã là bạn của cả hai vợ chồng, họ sẽ tiếp tục là bạn và duy trì tình nghiã với cả hai. Và điều đáng nói là họ không bao giờ đi sâu vào vấn đề riêng của hai người đã ly dị  để không phải trở thành bạn của người này, thù đối với người kia. Nhờ tình bạn trong sáng, vô tư, hào sảng, họ luôn giữ được tư thế người bạn qúy, dễ thương, đáng tin cậy.
2.   Chọn lựa đứng ngoài cuộc với thái độ bàng quan:
Chủ trương không can dự để khỏi bị “văng miểng, lạc đạn” là chọn lựa dễ dãi, dễ dàng nên phần đông có khuynh hướng nghiêng theo chọn lựa này. Những người bạn quen  kiểu  “thời vụ, cơ hội” sẽ không ra khỏi chọn lựa hời hợt,vô trách nhiệm và gần như vô cảm: Họ đến rồi đi không tơ vương, nặng lòng; đến dễ nên đi cũng không bịn rịn, khó khăn. Số bạn bè kiểu này khá đông, nên dễ hiểu tại sao vợ chồng sau ly dị không còn thấy bóng dáng bạn bè ngày xưa.
Điều  đáng buồn ở những người bạn này là sự thờ ơ, lãnh đạm của họ trước nhu cầu của bạn bè trong cơn khó khăn, thử thách. Họ thong thả đến vô trách nhiệm, và ung dung gần như vô tâm, vì quen ích kỷ. Điều ấy chứng tỏ tình bạn của họ rất đáng nghi ngờ vì nặng thực dụng, và nhất thời.
3.   Chọn lựa xấn xổ tham dự, và lèo lái tình huống theo ý mình:
Bên cạnh  chọn lựa tiêu cực khi “bàng quan, đứng ngoài, tránh bị liên lụy” , ta gặp một chọn lựa khác  còn kinh dị và tiêu cực hơn, đó là “nhẩy bổ và ngồi xổm” vào chuyện riêng của người khác.
Những người bạn thiếu tế nhị này thích thò tay, để mũi vào chuyện riêng của vợ chồng người khác đang có vấn đề và không ngượng ngùng xấn xổ tham dự và rắp ranh lèo lái tình huống theo ý mình. Họ tự cho mình cái quyền sắp xếp chuyện gia đình người khác, quyền  áp đặt “ý kiến, ý muốn” của họ trên hai người đang trên đường  ly dị. Nếu họ muốn hai người “bỏ nhau”, họ sẽ cực lực thúc đẩy, và bằng mọi cách làm cho hai người phải sớm chia tay. Ngược lại, nếu họ không đồng ý, không ủng hộ, họ sẽ không để hai người ly dị bằng bất cứ giá nào. Xem ra hai người trong cuộc không còn quyền định đoạt vận mệnh đời mình, cũng như không có quyền giải quyết những vấn đề riêng tư; trái lại họ bị biến thành  con rối trong tay người khác và cuộc đời họ hoàn toàn bị  ý muốn của người khác lèo lái, sắp đặt.
Điểm mặt những người bạn có máu xâm lăng, người viết muốn nhắc nhở một tình trạng bị áp lực lấn lướt thường xẩy ra nơi những cặp vợ chồng trong cơn khủng hoảng trước giải pháp ly dị. Ở vào hoàn cảnh chán chường, mệt mỏi, thiếu sáng suốt do những đôi co căng thẳng, vợ chồng ở tình cảnh bất hoà rất dễ bị ru ngủ bởi những người bạn ở dạng này, để rồi vội vã, nông nổi quyết định ly hôn. Không thiếu  những vợ chồng sau khi ly dị đã nhận ra mình qúa ngây thơ và nhẹ dạ khi nghe lời bạn bè.       
Trong thực tế, khi trao đổi và tư vấn, người ta không nên tiên thiên quyết đoán và lèo lái quyết định của người trong cuộc; bởi  chỉ người trong cuộc mới có thể quyết định vì  thấu đáo và nắm chắc được toàn bộ vấn đề và các khiá cạnh phức tạp của nó. Thúc đẩy người khác ly dị hay ngăn cản không cho ly dị, thiết tưởng cả hai đều cực đoan, thái qúa. Chân thành mà nói, có những trường hợp không ly dị không được, vì nếu cứ mãi do dự, níu kéo, người ta chỉ đưa nhau đến tận diệt khi đời sống chung trở thành nơi phát sinh tội ác. Vì thế, ly dị nhiều khi là chọn lựa bắt buộc mà người ta không thể tránh như miễn cưỡng chọn một điều ít xấu nhất trong các điều xấu đang có mặt.   
Về phần vợ chồng ly dị, họ sẽ nhận ra ai là bạn tốt và ai là bạn “hữu danh vô thực”: mang tiếng là bạn, nhưng  tình  bạn chân thực thì không có. Hai người cũng sẽ mất đi một số bạn. Những người này hoặc tránh cho khỏi bị phiền lụy, hoặc né bên này để chọn đứng về  bên kia.
Các nhà tâm lý gia đình cùng chung nhận định: thời hậu ly dị là thời hai người  rất cần sự có mặt của bạn bè, nhưng lại là thời  bạn bè vắng bóng nhiều nhất. Có những trường hợp hai người ly dị không muốn gặp lại bạn bè, nhưng ngay trong ý muốn “không muốn gặp” đó cũng tiềm tàng một nhu cầu thông giao, liên đới mà vì những lý do bất khả kháng, hai người đành phải “muốn”cái điều họ không thực sự mong . Và sự vắng mặt của bè bạn vì thế có thể được vắn tắt  cắt nghiã như sau:
a.   Do hai người mới ly dị từ chối liên lạc:
Vợ chồng mới ly dị tự động cắt quan hệ với bạn bè có thể vì muốn giấu kín  nguyên nhân đưa đến ly dị; hoặc chung quanh biến cố ly dị đã có qúa nhiều những  bẽ bàng cần che đậy. Họ cũng tránh bạn bè vì muốn được yên thân, khỏi phải trả lời những câu hỏi đánh thức cơn đau. Đàng khác, cũng vì muốn giữ danh dự, uy tín cho nhau, nhiều đôi ly dị đã cùng quyết định không gặp lại bạn cũ. Sự cắt đứt bạn cũ trong thời  hậu ly dị ít ra cũng giúp không tạo điều kiện cho người khác thị phi, phê bình, luận tội bên này, ca tụng bên kia một cách bừa bãi, vô trách nhiễm.     
b.   Do tình hình mới không cho phép:
Tình hình mới đây có thể do người vợ mới, người chồng mới, hay người tình mới  của một hoặc của cả hai người đã ly dị  muốn cắt đứt mọi liên hệ hầu bảo vệ an toàn  mối tình mới, gia đình, hạnh phúc mới. Nhiều người, sau khi tái hôn đã xóa sạch mọi quan hệ cũ, xa tránh bạn bè cũ. Họ biết đây là chọn lựa bất đắc dĩ, ngoài ý muốn, nhưng vì đó là đòi hỏi của người yêu mới, vợ mới, chồng mới, họ phải chấp nhận quên đi tất cả người xưa để  không ai, không sự gì làm nhiễu cuộc sống hôm nay với chuyện tình hiện tại rất mới của họ.
c.    Do mặc cảm thất bại hay mặc cảm tội lỗi ở hai người:
Ly dị nào cũng có nguyên nhân, dù nguyên nhân đó đúng, sai, thật, giả. Nhưng bất kể là nguyên nhân nào, người ngoài cuộc vẫn có thể  phê bình, lên án tùy theo nhãn giới, quan điểm, vị thế của mình. Chính vì thế, người ly dị có thể được thông cảm bởi người này, nhưng bị kết án bởi người kia; được phe này ủng hộ, nhưng bị phiá kia đả kích; không ray rứt với người này, nhưng mang mặc cảm có tội với người kia; bình an với một số người, nhưng bất ổn, bối rối đối với nhiều người khác.
Vì tính phức tạp, đa dạng của vấn đề, nên người ly dị không dễ thảnh thơi tâm hồn và nhẹ nhõm lương tâm sau quyết định ly hôn. Những ràng buộc tôn giáo, gia đình, gia tộc, bạn hữu không thuần nhất, đồng bộ trong nhận định, phán quyết, nên cũng rất khác biệt trong hậu qủa. Từ đó, mặc cảm phát sinh và không chế tâm lý của hai người ly dị biến họ thành những con người hoặc nhát đảm, rụt rè vì mặc cảm tội lỗi, hoặc  buông thả, bất cần vì mặc cảm thất bại. Đừng quên ở vào tình trạng tâm lý căng thẳng vì những hiểu lầm, chống đối , người ta dễ mất thăng bằng và rơi vào tình trạng khủng hoảng căn tính, nghiã là hồ nghi về chính sự có mặt của mình.  
Để khép lại vai trò của bạn bè trong thời gian hậu ly dị, chúng ta có thể cùng đi thêm với nhau  một bước nữa khi suy tư về: sự cần thiết của những bàn tay thân hữu:
NHỮNG BÀN TAY THÂN HỮU
Rất ít trường hợp ly dị không có những bàn tay từ bên ngoài can thiệp: những bàn tay nhúng vào cố ý quậy nát, những bàn tay tìm giải pháp hoà giải, những bàn tay xây dựng, nối kết và những bàn tay phân rẽ, chia phôi. Mỗi bàn tay có  mục tiêu tốt - xấu  khác nhau. Mỗi đóng góp mang  ý hướng cao thượng hay ý đồ  xấu xa. Người ta có thể là bạn tốt mà cũng có thể là bạn xấu; có thể đưa tay cứu vớt, mà cũng có thể ra tay nhận chìm  những người đang chết đuối trong cơn sóng ly dị. 
Trước ly dị, hai người trong cuộc chắc chắn đã tham khảo nhiều ý kiến, hỏi han nhiều bạn bè, nghe ngóng nhiều phản ứng, nhận được nhiều đề nghị. Nhiều khuôn mặt, nhiều đề án, nhiều ủng hộ, nhưng cũng nhiều chống đối, bất đồng trùng trùng điệp điệp đến với họ. Họ tìm gặp người thân để phân trần, bàn hỏi mong giúp một lời khuyên, mở một lối thoát, khơi lên niềm hy vọng.   
Những người tốt luôn bắt đầu với hướng giải quyết ôn hoà, hàn gắn. Cực chẳng đã mới phải đề cập phương án ly dị như một giải pháp ít xấu nhất giữa những giải pháp khác xấu hơn, rất xấu. Một số người khư khư giữ lập trường cứng rắn, đanh thép: phải ly dị, “bỏ quách nó cho xong”, và thúc đẩy người trong cuộc đi đến giải pháp chia tay, gẫy gánh.
Không thiếu những “lời ra tiếng vào” rất tiêu cực, xúi bẩy phải ly dị; nhưng rất hiếm những bàn bạc khôn ngoan  mưu tìm phương án hoà giải, hàn gắn. Lý do là vì người ta luôn thích chọn giải pháp ngắn gọn, chóng vánh và dễ dàng; chưa kể tâm lý nghi ngại khi phải xuống nước làm hoà, phải khiêm tốn nhận lỗi, phải nhịn nhường, thua thiệt để có được đồng thuận, nhất trí.
Có những người phải tiếc nuối suốt đời, vì dại dột nghe lời xúi bẩy vội vã ra toà ly dị. Có những ân hận mãi không nguôi  vì thổi phồng qúa đáng, và bi thảm hoá một chuyện nhỏ. Có những quyết định lầm lẫn do thiếu trung thực chủ quan và khách quan. Có những sai phạm trong quyết đoán mà cả đời cũng sẽ không chỉnh sửa được.
Người sống trong thời chuẩn bị ly dị chịu nhiều áp lực từ nhiều phiá: gia đình ruột thịt, bạn bè, việc làm, uy tín. Tất cả đều nặng nề, khó gỡ và nhiều trường hợp, hai người đã ly dị vì áp lực khách quan hơn là do chính quyết định riêng có tự do của họ.     
Ý thức tính cách đặc biệt, duy nhất, nhiêu khê của từng trường hợp ly dị  hướng chúng ta đến thái độ tôn trọng người trong cuộc, khôn ngoan khi góp ý, dè dặt khi nhận định, và nhất là tế nhị trong  cư xử . Thái độ tế nhị giúp ta giữ một khoảng cách cần thiết để không trở thành kẻ soi mói lố bịch, kẻ hồ đồ lên án. Thái độ dè dặt, khôn ngoan tránh cho ta nhiều sai lầm trong phán đoán. Thái độ tôn trọng không cho phép ta coi thường những người đang gặp khó khăn; trái lại thúc đẩy ta chia sẻ, đồng hành và nâng đỡ họ.     
Như thế, điều muốn nói lên, và phải làm trước hết chính là thái độ của những người chung quanh đối với vợ chồng ly dị. Đừng quên, ở vào hoàn cảnh ly dị, người trong cuộc rất đơn côi, hoang mang, hụt hẫng, và rất cần những trái tim chia sẻ, những bàn tay nâng đỡ của cha mẹ, gia đình, bạn hữu. 
Nếu ngày thành hôn, cô dâu chú rể báo tin cho mọi người là vì vợ chồng mới muốn làm lớn niềm vui lớn đang lớn trong họ. Thiệp cưới là thiệp báo hỉ, báo một tin vui rất lớn, gửi một tin vui trọng đại: Hai người yêu nhau nay thành vợ chồng. Hai người muốn loan báo tình yêu và hạnh phúc hôn nhân của họ đến mọi người thân quen, để tình yêu của họ được chúc phúc, quyết định thành hôn của họ được gia đình, xã hội công nhận và ngày cưới  chính thức đánh dấu bước  đầu tiên của hai người  tay đan tay, lòng bên lòng trên con đường  hạnh phúc.
Nếu ngày cưới của họ, nhiều người nhận được thiệp hồng, nhiều người được mời đến dự tiệc là vì đó là ngày vui, biến cố vui, cuộc đời vui, con đường vui với những con người đang rất vui. Nhưng khi ly hôn, cũng vợ chồng này sẽ không vui,  không rộn ràng báo tin, không phấn khởi tổ chức tiệc tùng, vì ly hôn không là ngày vui, và ly dị là cây số sau cùng khép lại đường hôn nhân hạnh phúc. Chính vì không vui, nên tin ly hôn thường không được loan báo rộng rãi và người ta không mở tiệc ly dị, mời dự tiệc ly hôn như ngày vu quy, tân hôn, thành hôn đã là ngày vui nức lòng.  
Không báo tin cũng không lễ lạc, mời mọc khi hôn nhân không đạt mục đích, vợ chồng ly dị đã không muốn ai thấy họ, cũng như không muốn ai nói với họ khi họ có vấn đề. Nhưng đó có là lý do chính đáng cho phép chúng ta bỏ quên họ, tránh gặp họ, và tệ hơn nữa xúi bẩy, dổ thêm dầu vào lửa?
Ly dị nhiều khi không chỉ là chuyện riêng của vợ chồng. Người ta thường dễ dàng giản lược ly dị là chuyện riêng hai người trước đó đã yêu nhau, và cưới nhau. Thực tế, đã không ít miệng lưỡi góp ý, bàn tay đưa đẩy góp phần làm nên ly dị. Có nhiều ý kiến thuận và nghịch, nhiều bàn tay ngăn cản và đẩy tới. Có người ủng hộ và chống đối. Có người bị thiệt hại và người được lợi.Có người bực bội và người đắc chí. Có người thua và người thắng. Còn lại một số rất ít cùng chung tâm trạng buồn vui.  
Không là chuyện riêng của hai người, nên ly dị trở thành chuyện của nhiều người, nhưng rất ít người chia sẻ đúng nghiã và cảm thông chân thành với người ly dị.  
Chia sẻ và cảm thông là đặt mình vào hoàn cảnh của người ly dị để hiểu họ khổ đau biết bao khi phải chọn giải pháp “đứt gánh đường tình”; để thương họ khốn khổ thế nào khi bị giằng co, căng thẳng trước khi quyết định ký ly hôn.
Chia sẻ và cảm thông là tránh khích bác, khinh bỉ, nhất là lên án hồ đồ, vô trách nhiệm, vì ngoài vợ chồng ly dị, không ai có thể thấm thiá hết nỗi đau, niềm nhớ của cơn sốt đổ vỡ, ly tan.
Chia sẻ và cảm thông là trân qúy và dành cho vợ chồng ly dị lòng kính trọng. Họ cần được trân trọng vì ly dị không bao giờ là một tội ác, dù là điêu cấm đối với một số tôn giáo. 
Chia sẻ và cảm thông không được hiểu là a dua, đồng loã, nhưng là thái độ trưởng thành của người có lòng nhân và can đảm vì biết và dám có mặt với những ai đang gặp khó khăn, cần giúp đỡ.
Chia sẻ và cảm thông là khéo léo để trở thành nhịp cầu nối hai bến bờ ngăn cách, hai đối kháng căng thẳng, hai đối trọng nặng nề, hai đối thủ đều quyết tử quyết sinh.Tạo được “mẫu số chung” giữa hai người đã ly dị để cuộc sống hậu ly dị của họ thôi  là cuộc chiến trường kỳ cam go, bi thảm  phải là mục tiêu của người trung gian, hoà giải tốt và có khả năng.
Chia sẻ và cảm thông là phát huy tinh thần lạc quan để làm cho đời sống hậu ly dị của người ly dị phai dần ký ức buồn, xóa bớt vết nám bi quan, nhẹ đi gánh sầu tâm sự.
Chia sẻ và cảm thông đòi biết lắng nghe mà không tìm tòi, hạch hỏi. Biết lắng nghe để người nói trút hết tâm sự buồn, vì hoàn cảnh ly dị là hoàn cảnh không đơn giản, với nhiều tương quan phải sắp xếp, ổn định, nên thường rất nặng lòng và rối ren, bàng hoàng.
Lắng nghe là việc cần làm của người chung quanh mà người ly dị mong đợi. Họ cần có người lắng nghe hơn người nhận định, phê bình. Họ ao ước có được trái tim biết lắng nghe trong thinh lặng hơn ở bên nhà tư vấn nhiều lời. Họ khao khát được trải nỗi niềm bấy lâu ứ nghẹn hơn phải tiếp tục ngột ngạt vì luật lệ, giáo điều. Họ bình an với  yên lặng cảm thông hơn ngôn ngữ luân lý, đạo đức. Họ vui mừng được nói hơn vất vả trả lời. Họ đợi chờ được người khác nghe hơn nghe người khác lên lớp, khuyên bảo.
Như thế, nhu cầu tinh thần của người ly dị là được lắng nghe, vì được lắng nghe là được cảm thông, chia sẻ, và hạnh phúc bắt đầu từ giây phút một trái tim mở cửa đón nhận một trái tim khác.
Cảm thông là nhịp cầu ngắn nhất và chắc chắn để nối hai tâm hồn, hai cuộc đời, hai con người. Cảm thông đem lại nghị lực và hy vọng cho người đang chênh vênh trên dốc đá thất vọng. Cảm thông làm cô đơn nguôi ngoai, tình người nở rộ.   

TIN MỪNG KHÔNG BIÊN GIỚI


Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 6, Phục Sinh, Năm A
Bất chấp những khó khăn và bách hại ngày càng gia tăng, giáo đoàn Kitô hữu tiên khởi đã ra khỏi Giêrusalem để đến với muôn dân như bài sai của Đức Giêsu phục sinh: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Thầy” (Mt 28,19). Và từ nay Tin Mừng Đức Giêsu chịu đóng đinh trên thập tự và đã sống lại từ cõi chết không còn là Tin Mừng cho dân tộc Do Thái hay một miền đất, một nền văn hoá nào, nhưng là Tin Mừng không biên giới cho tất cả mọi người ở mọi thời, mọi nơi.
Thực vậy, lúc bấy giờ giáo đoàn tín hữu ở Giêrusalem bị truy lùng, bắt bớ dữ dội, điển hình là cuộc tử đạo của một trong Nhóm Bẩy Người là ông Têphanô. Nhóm này, ngoài Têphanô, còn có “các ông Philípphê, Pơrôkhôrô, Nicano, Timôn, Pácmêna và ông Nicôla” là những người “được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan” được các Tông Đồ chọn và đặt tay (Cv 6,3.5).
Ông Têphanô bị tố cáo “lộng ngôn xúc phạm đến ông Môsê và Thiên Chúa” và “không ngừng nói những lời phạm đến Nơi Thánh và Lề Luật” (Cv 6,11-12), và họ đã ném đá ông cho đến chết. “Các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Saolô” (Cv 7,58). “Phần ông Saolô, ông tán thành việc giết ông Têphanô” (Cv 8,1). Và sách Công Vụ các Tông Đồ đã tóm tắt tình hình bách hại các tín hữu ở Giêrusalem buổi đầu của Giáo Hội như sau:
“Hồi ấy, Hội Thánh tại Giêrusalem trải qua một cơn bắt bớ dữ dội. Ngoài các Tông Đồ ra, mọi người đều phải tản mác về các vùng quê miền Giuđê và Samari… Còn ông Saolô thì cứ phá hoại Hội Thánh: ông đến từng nhà, lôi cả đàn ông lẫn đàn bà đi tống ngục” (Cv 8,1.3).
Chính trong thời buổi bị bách hại này mà Philípphê, một trong Nhóm Bẩy Người đã “xuống một thành miền Samari và rao giảng Đức Kitô cho dân cư ở đó” (Cv 8,5).
Samari là miền ngoại đạo và thù nghịch với người Do Thái, hai dân tộc ngăn cách bởi nhiều rào cản, và họ không chấp nhận nhau, đến nỗi chỉ đi ngang qua vùng Samari thôi, người Do Thái cũng không được phép. Nhưng bây giờ thì Tin Mừng vượt tuyến, vượt biên, vượt mọi chướng vật, rào cản, vượt mọi kỳ thị, thành kiến, vượt mọi phong tục, truyền thống, luật lệ để trở thành Tin Mừng không biên giới, hầu đến được với hết mọi người, không trừ ai. Sự việc hai tông đồ Phêrô và Gioan  đã đến tận Samari và đặt tay cầu nguyện cho dân cư ở đó, để họ nhận được Thánh Thần đã nói lên tinh thần hăng say với sứ vụ loan báo Tin Mừng không biên giới này, khi vượt qua mọi biên giới của chủng tộc, địa lý, lịch sử, xã hội, chính trị, văn hoá, lề luật mà Đức Giêsu đã ủy thác cho các vị, sau khi sống lại (x. Cv 8,14-17).
Thực vậy, giáo đoàn đầu tiên cũng như các tín hữu của dòng lịch sử Giáo Hội đã ý thức và xác tín: Đức Giêsu chịi đóng đinh và sống lại là Tin Mừng không biên giới của toàn thể nhân loại.
Để Tin Mừng trở thành Tin Mừng cho mọi người, Tin Mừng không biên giới, họ đã sống thuận hoà với nhau trước mặt Thiên Chúa và chia sẻ với người chung quanh niềm hy vọng trong Đức Giêsu phục sinh, như lời khuyên của thánh tông đồ trưởng Phêrô: “Tất cả anh chị em hãy đồng tâm nhất trí, thông cảm với nhau, hãy yêu thương nhau như anh em, hãy ăn ở nhân hậu và khiêm tốn. Đừng lấy ác báo ác, đừng lấy lời nguyền rủa đáp lại lời nguyền rủa, nhưng trái lại, hãy chúc phúc, vì anh chị em được Thiên Chúa kêu gọi chính là để thừa hưởng lời chúc phúc” (1 Pr 3,8-9). Chính nhờ đời sống bác ái, yêu thương, nhân hậu, như “dấu chỉ duy nhất họ là môn đệ của Đức Giêsu”, mà Tin Mừng đến được với mọi người, Đức Giêsu được tin thờ, yêu mến, khi  chứng từ của họ trở nên thuyết phục.
Và “Tin Mừng không biên giới” ấy đã được chính Đức Giêsu tuyên bố bảo đảm trong buổi tối thứ năm tuần thánh trước mặt các tông đồ, sau khi Giuđa đã bỏ bàn tiệc ra đi, khi Ngài nói về sự hiệp nhất giữa Ngài với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, đồng thời giới thiệu với các ông Chúa Thánh Thần như Đấng Bảo Trợ: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật” (Ga 14,16-17).
Chính Thần Khí sự thật sẽ dẫn đưa người Kitô hữu đến với Chúa Ba Ngôi, nhờ tình yêu và lòng trung thành với Lời Thiên Chúa mà họ đã nhận được từ Đức Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa. Cũng chính nhờ Thần Khí sự thật, mà các môn đệ của Đức Giêsu đã, đang và sẽ làm cho thế giới nhận ra ý muốn và hạnh phúc của Thiên Chúa là: tất cả mọi người được cứu độ và được sống.
Vâng, mục đích của Tin Mừng không biên giới, chính là không để bất cứ ai, ở bất kỳ nơi nào, thời nào mất đi cơ hội được nghe Tin Mừng “Thiên Chúa yêu thương họ”. Và mục đích ấy sẽ chỉ có thể đạt được, khi niềm vui phục sinh của người môn đệ Đức Giêsu được hiện thực hoá bằng  nhiệt huyết tông đồ, qua nỗ lực truyền giáo để Lời hằng sống, Máu và Nước từ thân xác Thiên Chúa làm người bị đóng đinh, cũng như ơn Cứu Độ và Bình An của Đức Giêsu sống lại  tuôn chảy đến  mọi người, không trừ ai, như thánh ý đời đời của Chúa Cha.
Jorathe Nắng Tím