Tìm kiếm Blog này

Thứ Ba, 21 tháng 8, 2018

MẸ NÀO CON NẤY


MẸ NÀO CON NẤY



   Ẵm trên vai đứa con 2 năm tuổi bụ bẫm, kháu khỉnh luôn miệng nghêu ngao : “Ba thương con vì con giống mẹ, mẹ thương con vì con giống ba”, người mẹ trẻ rạo rực niềm vui và mỉm cười mãn nguyện, hạnh phúc. 
Phải rồi, người mẹ trẻ này có quyền mãn nguyện vì đứa con do bà sinh ra đã không giống ai khác, mà chỉ giống chồng bà và giống bà. Và từ ngày hạ sinh bé, gia đình bé nhỏ lúc nào cũng vui như tết, vì cả bà và chồng đều hạnh phúc, hãnh diện về đứa con giống cha, giống mẹ của mình.

   Đức Maria, mẹ Đức Giêsu cũng vui niềm vui làm cha mẹ ấy, niềm vui khôn tả của hằng ngàn tỷ các cha mẹ trên thế giới, kể  từ ngày khai thiên lập địa đến giờ, bởi đó là hạnh phúc Thiên Chúa ban tặng riêng  cho bậc cha mẹ, là những cộng tác viên của Ngài trong việc sinh ra những con người mới.
Nhưng còn một điều làm cho Đức Mẹ vui hơn, đó là Đức Giêsu, con trai duy nhất của Mẹ đã tuyệt đối giống Mẹ như hai giọt nước trong tiếng  Xin Vâng.


    Qủa thực, hạnh phúc lớn nhất của Đức Mẹ là đã huấn luyện Đức Giêsu trở thành một người con luôn vâng phục thánh ý và sẵn sàng Xin Vâng trong mọi tình huống, và đúng như ước muốn của Mẹ,  Đức Giêsu suốt đời không những đã vâng phục cha mẹ trần gian của Ngài, mà còn tuyệt đối vâng phục Chúa Cha trên trời, Đấng đã sai Ngài đến trong thế gian để vâng phục và thực hiện thánh ý.
     Là người nữ được Thiên Chúa chúc phúc và tuyển chọn làm mẹ Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người, Mẹ Maria đã khiêm tốn và can đảm đón nhận một sứ mạng vô cùng khó khăn của Thiên Chúa trao. Sứ mạng ấy cực kỳ khó khăn vì đầy những mâu thuẫn, bởi có đời nào trinh nữ mà  làm mẹ ; không ăn ở với đàn ông mà có thai, thiếu nữ tầm thường của thôn làng Nazareth vô danh tiểu tốt mà bỗng chốc trở thành mẹ Đấng Tối Cao,  không thuộc hàng ỡ danh gia vọng tộc “mà bỗng dưng làm mẹ Đấng Thiên Chúa sai đến để ỡ trị vị nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1, 30 -33) ; thế nên khi nghe thiên sứ Gabriel nói : “Maria, xin cô đừng sợ, vì cô đẹp lòng Thiên Chúa.Vì này đây, cô sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu” (Lc 1,31),  Đức Maria đã không khỏi  sửng sốt thưa lại với thiên sứ : “Việc ấy xẩy ra thế nào được, vì tôi không biết đến việc vợ chồng”  (Lc 1,34). Và qủa thực, chỉ riêng một chuyện không  biết đến việc vợ chồng thôi cũng đủ làm Đức Maria hoảng hốt, rét run, nổi da gà, khi nghe thiên sứ loan tin được Thiên Chúa chọn làm mẹ Đức Giêsu, Đấng Cứu Thế.

     Mẹ run là phải, nổi da gà là điều không thể tránh, hốt hoảng là tất nhiên, nhưng càng run, càng rét, càng hoảng, Mẹ càng chăm chú lắng nghe, và khiêm cung đón nhận giải thích của sứ thần : “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên cô, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên cô, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kià Êlisabéth, người chị họ của cô, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một con trai : bà ấy mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng.Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1, 35-37). Và Đức Maria đã khiêm tốn thưa với thiên sứ Gabriel : “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa  cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1, 38).

     Tiếng Xin Vâng đầy tin yêu, can đảm và khiêm tốn phó thác của Mẹ đã thay đổi toàn bộ cục diện nhân loại. Thiên Chúa lại có thể can thiệp vào tự do của con người để cứu độ con người, vì Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do và đợi chờ sự cộng tác của con người trong chương trình yêu thương, cứu độ nhân loại của Ngài. Chính nhờ Đức Maria đã tuyệt đối phó thác và vâng phục thánh ý mầu nhiệm của Thiên Chúa khi trả lời Xin Vâng với thiên sứ, mà Đức Giêsu mới có thể nhập thể làm người trong cung lòng một trinh nữ, hầu thực hiện mầu nhiệm “Thiên Chúa yêu thương loài người đế nỗi đã sai Con Một của Ngài xuống thế gian” (Ga 3,16)  làm người như mọi người, ngoại trừ tội lỗi để cứu độ mọi người . Với Đức Maria, nữ tỳ hiền lành và vâng phục , Đức Giêsu, Thiên Chúa mới có thể làm người để mặc khải và làm chứng :  Thiên Chúa là Tình Yêu thương xót,  và Ngài  được Thiên Chúa Cha sai đến để làm Chiên gánh tội và xóa tội trần gian, làm Của Lễ tuyệt đối chuộc hết lỗi lầm của  con  người ; làm cho mọi người được sống, được sống lại và sống đời đời sau cuộc sống  trần gian này.
Đức Maria đã không nói  tiếng Xin Vâng một cách vô tình, ngẫu nhiên, máy móc, nhưng tiếng Xin Vâng từ môi miệng Mẹ là kết qủa của niềm tin tuyệt đối vào Lời Hứa của Thiên Chúa với cha ông từ bao thế hệ, đồng thời là chứng cứ  tình yêu phó thác vô điều kiện của Mẹ ở Thiên Chúa toàn năng. Nhờ tuyệt đối tin yêu và phó thác, Mẹ đã ý thức tính cao qúy nhưng vô vàn khó khăn của sứ vụ làm Mẹ Đấng Cứu Thế, và cùng lúc, Mẹ sẵn sàng dấn thân, can đảm lao mình vào cuộc mạo hiểm yêu thương, cứu độ với Thiên Chúa, bởi biết rằng : “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1, 37). 

    Và suốt cuộc đời Đức Maria, từ buổi Truyền Tin làm Mẹ Đức Giêsu cho đến giây phút đứng nhìn, rồi ôm xác con nát tan, bê bết máu và nước vừa được  tháo xuống từ thánh giá, Mẹ đã luôn sống triệt để  lời Xin Vâng đã thưa với sứ thần.
Sống lời Xin Vâng, Mẹ cũng đã dậy Đức Giêsu, con mẹ sống Xin Vâng như Mẹ. Mẹ dậy Đức Giêsu, con Mẹ  không chỉ vâng phục cha mẹ trong nhà, vâng phục ông bà, chú bác, cô dì trong họ, vâng phục Lề Luật trong Đạo, mà còn kiên trì dậy Đức Giêsu vâng phục tuyệt đối thánh ý của Chúa Cha, thánh ý mà Mẹ nắm bắt chính xác và kín đáo ôm ấp trong lòng. Mẹ biết Đức Giêsu đến trong thế gian để làm gì ; biết Chúa Cha muốn gì nơi Đức Giêsu; biết sứ mạng của  con Mẹ khó khăn, cam go, và đầy chông gai, thử thách như thế nào ; biết số phận của Đức Giêsu sẽ ra sao ; biết tình đời đen bạc, lòng người khó đo lường,    thiên hạ sẽ đối xử tệ bạc đến cỡ nào với con Mẹ ; nhưng đồng thời Mẹ cũng biết vinh quang của Đức Giêsu, con Mẹ sẽ rực sáng, khi hoàn tất sứ mạng cứu thế bằng chết trên thánh giá.

     Đức Giêsu đã học ở Mẹ mình bài học căn bản và nằm lòng là Vâng Phục. Và Ngài đã vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến chết, và chết trên thập giá (Pl 2,8).Không còn vâng phục nào vĩ đại và trọn vẹn hơn  vâng phục cho đến chết, chết để chứng minh lòng vâng phục. Đức Giêsu, với nhân tính, sẽ không thể vâng phục đến cùng và  toàn tâm toàn ý, toàn phần như thế, nếu đã không được Mẹ mình là Đức Maria giáo dục huấn luyện, uốn nắn. Là người như mọi người, trẻ thơ như bao trẻ thơ, thiếu nhi như bao thiếu nhi, thanh niên như bao thanh niên, Đức Giêsu đã trở nên con người trăm phần trăm, nên khôngđược miễn trừ bất cứ một điều kiện, một đòi hỏi nào của con người, trừ tội lỗi. Vì thế, ngài cũng cần được cha mẹ, thầy cô, người lớn bảo ban, nhắc nhở, xây dựng để trưởng thành. Đức Maria đã không chỉ sinh ra Đức Giêsu, nhưng là Mẹ trăm phần trăm, Mẹ còn bổn phận nuôi dưỡng, giáo dục, đào tạo Đức Giêsu, nên người, nên con Chúa. Điều đó muốn nói lên rằng : Đức Maria thực sự là Mẹ Đức Giêsu ở trần gian và Mẹ đã chu toàn sứ mạng làm Mẹ Thiên Chúa, danh hiệu vô cùng cao qúy mà Giáo Hội vui mừng tôn vinh Mẹ.

    Được Mẹ dậy bảo vâng phục, Đức Giêsu đã tập sống từng ngày, từ thưở thơ ấu tinh thần vâng phúc ấy, nhờ thế, Ngài mới có thể  can đảm đón nhận chén đắng sắp phải uống với tinh thần tuyệt đối vâng phục  trong vườn Cây Dầu trước giờ bị bắt và chịu khổ hình, tử nạn:  “Lậy Cha, nếu có thể được thì xin cất chén đắng này cho con, nhưng xin đừng theo ý con, nhưng xin  vâng ý Cha mọi đàng” ( Mt 26,43).  Trên thánh giá, Đức Giêsu cũng  biểu lộ lòng vâng phục tột độ khi đau đớn rướn người thân thưa với Chúa Cha trong cô đơn tột cùng : “Lậy Thiên Chúa, lậy Thiên Chúa của con, sao Chúa bỏ rơi con?” (Mt 27,47). Đây không phải lời than thở, trách móc trong tuyệt vọng, nhưng là lời cầu khẩn tha thiết nhất trong thử thách cuối cùng và tận cùng của trái tim dạt dào yêu mến, và tuyệt đối vâng phục thánh ý. Đức Giêsu đã sống vâng phục và luôn trả lời Xin Vâng với Chúa Cha trong mọi thử thách thể xác cũng như tinh thần, vì đó là mục đích của đời Ngài : đến để thi hành thánh ý Chúa Cha, như Ngài đã qủa quyết trước đám đông : “Tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi” (Ga 6,38).

     Qủa thực, trên đời này không gì dễ thương, đáng mơ ước hơn hạnh phúc  “Mẹ nào con nấy” khi  mẹ dễ thương, con dễ mến ; mẹ hiền lành, đằm thắm, con nhu mì, thùy mị ; mẹ khiêm nhường, đảm đang, con công -dung- hạnh, khiêm tốn ; mẹ vui vẻ, dễ gần, con thân thiện, cởi mở ; mẹ bao dung, ân cần,  con cảm thông tha thứ ; mẹ tần tảo, chịu khó, con nhẫn nại, hy sinh ; mẹ thương người, rộng lượng, con quảng đại sẻ chia ; mẹ trung tín, thật thà, con nghiã hiệp, thành tín ; mẹ tin tưởng phó thác, con hy vọng, lạc quan ; mẹ can đảm dấn thân, con mạnh mẽ, dũng cảm ; và tuyệt vời thánh thiện, tuyệt đối cao đẹp “Mẹ nào con nấy” của  Mẹ - Con Đức Giêsu, khi cả mẹ và con đã suốt đời cùng chung tiếng Xin Vâng : vâng phục đến cùng, vâng lời đến chết.

    Xin cho chúng con cũng được diễm phúc “Mẹ nào con nấy” để luôn được đồng hành với Mẹ trong tinh thần vâng phục, và mãi mãi cùng Mẹ Xin Vâng trước mời gọi của Thiên Chúa.
Jorathe Nắng Tím

      

Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu


Những Nụ Hồng Bé Bé, Xinh Xinh !
Chắc chắn nhiều người trong các bạn đã có dịp đến Lisieux kính viếng thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, bổn mạng các xứ truyền giáo và tác giả của linh đạo “Con đường thơ ấu, bé nhỏ”. Đến đây, các bạn sẽ thấy nhiều vườn hồng với những nụ hồng chúm chím, bé bé, xinh xinh, e ấp, hiền lành quanh nhà  thánh nữ, trước cổng nhà dòng nơi thánh nữ tu và tạ thế, dọc theo con đường dẫn vào vương cung thánh đường dâng kính thánh nữ. Và khắp nơi trong thành phố Lisieux, hoa hồng chen chúc như muốn bám sát gót chân khách hành hương.
  Việt Nam, đặc biệt Sàigòn, các dòng kín Camêlô vào dịp lễ thánh Têrêsa, mùng Một tháng Mười hằng nằm, các sơ đều trao tặng tận tay mỗi người một bông hồng, biểu tượng tình yêu của thánh nữ Têrêsa, người chị cùng dòng. 
Đọc nhật ký “Một Tâm Hồn” của thánh Têrêsa, chúng ta nhận ra một điểm rất đặc biệt nơi thánh nữ, đó là ý nghiã và giá trị của những việc nhỏ trong đời sống, nhất là tinh thần bé nhỏ đã trở thành với thánh nữ con đường nên thánh, con đường mà chị thánh Têrêsa cho là ngắn nhất, nhanh nhất đến với Thiên Chúa, và hình ảnh thang máy là hình ảnh chị thánh đã dùng để nói lên tính hữu hiệu tuyệt vời : vừa nhanh, vừa dễ  của “con đường thơ ấu, bé nhỏ”.
Con đường ấy bé nhỏ vì dành cho những con người bé nhỏ, nhưng được Thiên Chúa yêu thương cách riêng và dành cho mọi ưu tiên, đặc lợi : “Lậy Cha, con ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn.Vâng, lậy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21). Qua lời cầu nguyện tạ ơn  của Đức Giêsu, chúng ta mới biết : người bé nhỏ, hèn mọn luôn được Thiên Chúa yêu riêng, vì họ là những người làm đẹp lòng Thiên Chúa.
Làm đẹp lòng Thiên Chúa khi làm những việc bé nhỏ nhưng với tình yêu lớn ; chọn những việc thấp bé,  hèn mọn, nhưng với tình yêu vút cao ; đón nhận những chức phận bé nhỏ, mờ nhạt, dễ bị lãng quên, nhưng với niềm vui phục vụ  vĩ đại và tình yêu sâu thẳm. Con đường bé nhỏ tưởng nhỏ, nhưng không nhỏ chút nào, bởi con đường ấy tuy nhỏ với những việc làm mà người đời chê nhỏ nên không làm, chê bé nên không ham, chê tầm thường nên không muốn, chê hèn hạ nên không màng, chê ít ỏi nên không đầu tư, chê cỏn con, bé xíu nên không quan tâm, tìm kiếm , nhưng trong thực tế, những “bé nhỏ, hèn mọn, thấp kém, cỏn con, tầm thường” ấy đã phải cần đến tình yêu rất lớn để dám lên đường, cần đến nhiệt huyết sục sôi để thực hiện hành trình về đích, cần đến mồ hôi, nước mắt của hy sinh quên mình để hoàn thành sứ mệnh được trao, cần đến khổ đau, nhục nhằn, nhẫn nại, liều lĩnh của người anh hùng để đại cuộc được thành công. Trên con đường bé nhỏ  này, không có gì là bé nhỏ, hèn mọn, nhưng tất cả những gì được coi là hèn mọn, nhỏ bé gặp được trên đường đều trở thành vĩ đại, lớn lao, cao qúy khi được tình yêu bao phủ, thăng hoa, cất nhắc.
Suốt cuộc đời, chị thánh Têrêsa đã ươm trồng những bụi hồng hy sinh, chăm sóc những đóa hồng yêu thương tuyệt vời.Chọn hoa hồng như biểu tượng của tình yêu hy sinh, tình yêu quên mình, tình yêu hoàn toàn bị đốt cháy, thiêu hủy vì người khác, chị thánh đã hiểu hết ý nghiã : muốn là hoa hồng phải có gai, có gai mới được gọi là hoa hồng như tình yêu không thể thiếu hy sinh, yêu thương không thể vắng bóng thử thách, đau khổ. Nhưng trong tình yêu, khổ đau sẽ làm tăng hạnh phúc của tình yêu, và thử thách sẽ làm lớn sức mạnh của trái tim luôn sẵn sàng trở nên tất cả cho mọi người.
Chị thánh đã thể hiện con đường bé nhỏ của tình yêu trong gia đình với một tình yêu rất ân cần quan tâm đến cha già và các chị. Trong nhà dòng, với đôi chân bé nhỏ,  chị đã tín thác bước đi trên con đường yêu thương với muôn ngàn nhẫn nại chịu đựng và qủang đại tha thứ. Đời sống tu, tuy là đời sống của những người tận hiến cho Thiên Chúa, nhưng cũng là đời sống của con người. Được  trọn vẹn thuộc về  Chúa, nhưng tu sĩ vẫn phải sống cuộc sống của con người với nhiều giới hạn, nên không thiếu cho người tu những mâu thuẫn, đối kháng, đố kỵ, thị phi, bằng “mặt chứ không bằng lòng” trong cộng đoàn. Vì thế, thánh giá mình và thánh giá người khác cứ vẫn cồng kềnh nặng trĩu vai người tu ; chén đắng người tu vẫn cứ phải ừng ực uống mỗi ngày ; trái ý, phật lòng vẫn cứ níu kéo, bám chặt gấu áo dòng làm đau lòng, mệt não người tu. Chị thánh Têrêsa, tu sĩ dòng kín Camêlô đã sống hết thử thách của đời tu này, nhưng đồng thời cũng nếm hết ngọt ngào của hạnh phúc trong tình yêu hy sinh của đời tu.
Bên cạnh tình yêu rất lớn trong tinh thần bé nhỏ đối với gia đình, và cộng đoàn tu sĩ, chị thánh còn biểu hiện tình yêu của mình đối với Giáo Hội, mà chị xin được làm trái tim trong thân thể mầu nhiệm ấy. Không phải bồng bột mà chị đã muốn làm trái tim của thân thể Hội Thánh, cũng không vì ngạo mạn, kiêu căng mà chị thánh đòi làm bộ phận trọng yếu nhất trong thân thể Giáo Hội, nhưng vì tình yêu thúc bách dữ dội, vì khát vọng yêu thuơng dâng cao ngút ngàn, chị thánh đã không thể chọn cho mình một chỗ đứng khác hơn là trái tim để được thoả thích yêu thương, cuồng nhiệt yêu thương, đắm duối yêu thương, tha thiết yêu thương như Thiên Chúa, là cha nhân hậu, đầy yêu thương của chị. Muốn trở thành trái tim và tự chọn cho mình chỗ đứng của tình yêu, thánh nữ đã không ngần ngại xác tín : tuy bé nhỏ và chỉ làm được những việc nhỏ bé, nhưng trái tim luôn sục sôi một tình yêu vĩ đại dành cho Thiên Chúa và tha nhân ; tuy hèn mọn và chỉ thực hiện được những công tác mọn hèn, nhưng với một qủa tim luôn khao khát yêu thương hơn,  khắc khoải tìm nhiều hạnh phúc hơn  cho người khác, và thao thức, băn khoăn cho phần rỗi các linh hồn. Tình yêu của chị thánh vì thế đã vượt qua những gì là bé nhỏ, hèn mọn dưới mắt người đời, và trở nên tuyệt vời, vĩ đại trước mặt Thiên Chúa, người Cha giầu lòng thương xót và rất bao dung, nhân hậu của chị.    
Chị Têrêsa yêu mến ơi,

Sắp đến tháng mười, em muốn cùng các bạn hát tặng chị bài ca “Bông Hồng nhỏ”, bài hát nhỏ như những nụ hồng bé bé xinh xinh mà chị thích, cũng nhỏ bé như đời chị bé nhỏ, đời của một nữ tu bé nhỏ, ẩn dấu đến độ mẹ Bề Trên trong ngày lễ an táng chị đã phải lúng túng thốt lên : “suốt những năm trong dòng, Têrêsa đã chẳng làm việc gì được gọi là nổi bật, đáng chú ý, nên không biết sẽ phải nói gì về chị đây trong điếu văn bên phần mộ”.
Em và các bạn hằng mong ước mọi người nhận ra giá trị của tình yêu hy sinh và con đường nên thánh dành cho những tâm hồn bé nhỏ của chị, được bắt đầu bằng trao tặng nhau mỗi buổi sáng những nụ hồng bé bé xinh xinh ngọt ngào và thắm đượm tình yêu cho nhau, và cứ thế tình yêu sẽ lớn lên, lan rộng để mọi người có nhau trong đời, để mọi người có nhau mỗi ngày, cho “Danh Cha là Thiên Chúa Tình Yêu được cả sáng, vương quốc tình yêu của Cha trị đến, Ý Cha là yêu thương được thể hiện dưới đất cũng như trên trời” và tất cả chúng con đều được cứu rỗi.
Jorathe Nắng Tìm