Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 22 tháng 6, 2020

BÉ LÀ CON…

Được cha mẹ sinh ra, đương nhiên bé là con của cha mẹ, nhưng có thể bé là con độc nhất, con lớn nhất, con nhỏ nhất. Tuy con nào cũng là con, con nào cũng không thể thay thế, hoán chuyển, con nào cũng duy nhất đối với cha mẹ, nhưng mỗi đứa ở vào những vị trí làm con khác nhau nên có  những đặc điểm khác nhau. Cùng chia sẻ  những đặc điểm của con cái : đưá đầu lòng, đứa út ít, đứa độc nhất vô nhị, người viết mong được đóng góp vào hạnh phúc của cha mẹ và niềm vui được yêu thương của những người có tên là “Con”.
1.   Con một hay con độc nhất:
Không nói thì ai cũng biết con một là con được cưng chiều, vì ngoài bé ra, không còn con nào nữa. Thường bé đến trong nỗi đợi chờ, niềm mong đợi nóng bỏng của cha mẹ. Có thể vì cha mẹ lấy nhau muộn, hoặc cha mẹ gặp phải những khó khăn trong việc thụ thai. Ngày vào đời của em vì thế đã trở thành ngày trọng đại, ngày chứa chan hạnh phúc, niềm vui. Đúng vậy, khi nghe tin em chào đời, ai cũng vui. Niềm vui từ trái tim mẹ em, cha em chảy lai láng về cả hai họ nội ngoại.Và ai cũng cho mình là người vui nhất!
Ai cũng vui nhất vì bé đích thực là niềm vui. Ai cũng ngất ngây hạnh phúc, vì bé chính là hạnh phúc của gia đình và mọi người. Và từng ngày bé lớn theo niềm vui, hạnh phúc đó. 
Nhưng không mấy người biết bé có những vấn đề :
a.   Vì là lần đầu tiên có con, nên cha mẹ chưa có kinh nghiệm nuôi nấng, giáo dục. Chính vì thế, ít nhiều bé sẽ  chịu thiệt thòi. 
b.   Bé không có ai để chơi, không có ai để chia sẻ, cũng không có ai để đương đầu vì bé chỉ duy nhất một mình. Bé khám phá ra một điều: làm con độc nhất bé phải tự mình hoc hỏi đời sống làm con.
c.    Vì một mình, bé mang hết một mình trên đôi vai kỳ vọng, ước mơ của cha mẹ. Mẹ thì muốn bé sẽ là bác sĩ giải phẫu nổi tiếng, ba thì muốn bé sẽ là kiến trúc sư kỳ tài. Còn riêng bé? Bé chỉ thấy mình oằn lưng dưới gánh nặng của đủ thứ ước mơ, kỳ vọng trong đầu người lớn.
d.   Bé bắt đầu thấy ngột ngạt vì mẹ bao bọc bé  kỹ qúa. Không việc làm nào của bé mà mẹ bỏ qua, không đồ dùng nào của bé mà mẹ không kiểm tra kỹ lưỡng. Sự bao bọc qúa kỹ của mẹ cho bé cảm tưởng bé là một người tù, một “thiên tử” bị loài người cẩn mật canh giữ.
Những vấn đề vừa nêu sẽ đưa đẩy bé đến tình trạng tâm lý không mấy thuận lợi cho việc thành hình nhân cách của bé. Và vì không muốn rơi vào tình trạng bất lợ cho nhân cách, bé muốn cha mẹ cùng bé đề phòng :
a.   Vì được nuông chiều, “thần tượng”, “thần thánh hoá một cách lố bịch, bé dễ trờ nên ích kỷ, thiếu xã hội tính, không trưởng thành. Bé chấp nhận một cách lười biếng tình trạng được bao bọc, lệ thuộc mọi người, nhất là cha mẹ mà không muốn cố gắng đứng trên đôi chân và tự mình bước. Bé thả trôi đời mình trong tay cha mẹ và phó mặc hiện tại, tương lai cho người khác định liệu. Bé thực là một thân tầm gửi có hạng!
b.   Vì không quen đương đầu, xoay xở, chiến đấu, bé rơi vào tâm trạng sợ cuộc sống, sợ ra khỏi vòng ôm an toàn của mẹ, sợ đi xa mái ấm được xây tường, rào dậu. Bé chấp nhận ở mãi trong pháo đài an toàn hơn là xông pha dấn thân mạo hiểm vào cuộc đời trước mặt. Đôi chân của bé qủa yếu ớt trước nắng gió và đường dài ngày mai !

c.     Vì là cục cưng của cha  mẹ, bé dễ rơi vào một  liên đới tình cảm “bất thường”, con trai với mẹ, con gái với cha, một thứ tình cảm lẫn lộn tình cha con, mẹ con với tình đôi lứa. Đến một lúc nào đó, bé vô phúc trở thành  người tình của cha, nếu là con gái, hay người tình của mẹ, nếu là con trai. Hiện tượng tâm lý khá phức tạp này thường xẩy ra khi cha mẹ thuộc diện tâm lý “độc quyền và sở hữu”. Những cha mẹ thuộc diện này có khuynh hướng vật thể hoá con và biến chúng thành một vật sở  hữu trong sinh hoạt  mà không hay biết. Chính vì không biết mà  tình trạng tâm lý dễ trở nên suy đồi trầm trọng biến con cái thành nạn nhân của  mất quân bình tình cảm, đưa đến thái độ từ chối mọi liên đới tình cảm chính đáng khác trong cuộc sống. Không thiếu những thanh niên đã không thể sống đời hôn nhân, thiếu nữ từ chối đời làm vợ vì tuổi thơ đã là nạn nhân của một liên đời tình cảm không bình thường đối với cha mẹ.

d.   Một nguy cơ khác cũng thường thấy, đó là khi cha mẹ quá kỳ vọng trên đứa con độc nhất của mình đã phóng ảnh đời mình lên con và bắt con phải thực hiện đúng như những gì mình muốn. Hậu qủa là khi lớn lên, khi con không thực hiện được những “lý tưởng cao vời vợi” đó, cha mẹ sẽ biến thành thù địch của con chỉ vì con đã làm mình vỡ mộng. Trong trường hợp này, cha mẹ đã không hề tìm hạnh phúc cho con, nhưng từ đầu đã chỉ nghĩ thoả mãn tham vọng của riêng mình.

Con độc nhất có nhiều cái “nhất”, nhưng cũng dễ bị trúng “độc”. Khôn ngoan trong giáo dục chính là thận trọng trước từng vị trí của con cái để có những phương thức giáo dục thích hợp cho từng đứa. Hãy can đảm và khiêm tốn cùng con yêu “độc nhất” bước xuống cuộc đời để giúp con chạm mặt những gì không luôn đòi phải “nhất”, nhưng rất thực, rất gần, rất đáng yêu của cuộc đời mà con chưa bao giờ được gặp.

2.   Con đầu lòng:
Con đầu lòng cũng có nhiều điểm tương đồng với đứa con độc nhất, vì là con thứ nhất và duy nhất cho đến khi xuất hiện đứa thứ hai. Vì chưa có đứa thứ hai, cha mẹ sẽ dồn tất cả tình yêu và quan tâm cho bé. Tuy thế, không như đứa con độc nhất, con đầu lòng không trở thành con Trời, con vua, cũng không “tầm gửi, lười biếng, buông xuôi, phó mặc”, nhưng luôn ý thức về một  trách nhiệm lớn.

Con đầu lòng tự ý thức vai trò đứng đầu, “lãnh đạo” của mình. Em biết cha mẹ trông cậy vào em, tín nhiệm em và cần đến em để nuôi nấng, chăm nom các con khác. Em nhận ra một cách tự nhiên vai trò đại diện, thay thế cha mẹ khi cha mẹ vắng mặt, một vai trò cực nặng đối với em. Trên vai em dường như lúc nào cũng lên xuống, nhấp nhỏm một gánh nặng đối với các em và một ước vọng đỡ đần cha mẹ. Em không cho phép mình chơi thoải mái, quậy tới bến như  các em, nhưng nhiệm vụ cao cả làm anh cả, chị hai nhắc  em phải chăm sóc các em, thận trọng bảo vệ các em, đằm thắm yêu thương các em, nhẫn nhịn chịu đựng các em, kiên nhẫn bảo ban các em và nếu cần cứng rắn sửa sai các em.
Là con đầu lòng, em cũng mang nỗi lo cho tương lai của đàn em và tự khoác cho mình chiếc áo “bảo mẫu” nặng chình chịch.
Có nhiều chị hai đã không muốn đi lấy chồng vì thương các em, vì không muốn cha mẹ một mình gánh vác đàn con đông. Những chị hai chấp nhận “ở vậy” không lấy chồng vì các em đã tự nguyện hy sinh chính đời mình. Bên cạnh những chị hai từ chối hẳn đời hôn nhân, còn những chị hai đi lấy chồng nhưng ngay ngáy lo lắng cho các em thay cha mẹ. Các bà chị hai này dễ rơi vào tình trạng tâm lý bị xé đôi: một bên gia đình lớn với cha mẹ, các em, một bên gia đình nhỏ với chồng con và hậu qủa sẽ không tốt đẹp khi người chồng ích kỷ lên tiếng phản đối. Người chồng có thể phản đối sự quan tâm thái qúa của chị đối với cha mẹ riêng và các  em bên nhà  khi thấy chị ngược xuôi, vất vả, bơ phờ vì lo chuyện bên nhà, nhất là khi những “lo lắng” đó đụng chạm đến vật chất, tiền bạc của gia đình nhỏ. Nhiều gia đình đã đổ vỡ vì nguyên nhân tình cảm rất “tế nhị” này. Nhiều chị hai đã không đủ khôn ngoan phân định ranh giới của bổn phận. Nhiều xung đột đã xẩy ra chỉ vì chị hai quá “hot” với việc của gia đình riêng mà  đôi chút lơ là chuyện gia đình mình đã đưa đến bực dọc, bất mãn nơi người chồng không  cùng “tần số”.

Trong nghiên cứu về tâm lý tuổi cặp kê, các nhà tâm lý đã đề cập đến tình trạng không thể tiến tới đời sống lứa đôi của một số thiếu nữ đã không có khả năng tách mình ra khỏi gia đình riêng khi quan hệ với bạn trai. Nhiều cô gái đã không thể đi chơi riêng với bạn trai mà không kéo theo một hai đứa em; không thể kết thúc một buổi hẹn hò mà không nhắc đến các em, cha mẹ với nhân tình đang chỉ chú ý đến cô, và chỉ quan tâm một mình cô; không thể bỏ quên những chuyện “chẳng đâu vào đâu” và thường là những chuyện không vui, những nhu cầu vật chất của gia đình mình trong dòng tâm sự với người yêu; không thể không thở than, sụt sùi thương thằng em đau bệnh, thương con em bị ở lại lớp, thương cha vừa mất việc, thương mẹ bán buôn ế ẩm với người tình đang chỉ muốn nói chuyện “hai đứa”, chuyện “chúng mình”. Cô gái đang làm một công việc không nên làm vì chính cô đang đẩy xa người tình muốn đến với cô, đang làm tan tình cảm chàng dành cho cô, vì cô quên bẵng một điều tối quan trọng trong tình yêu và đời sống đôi lứa, đó là hai người là đối tượng duy nhất của nhau, hai người đến với nhau và chỉ vì nhau mà đến. Vì thế, tất cả những gì không phải là “nhau” đều không có ý nghiã và lý do tồn tại, nhất là ở buổi sơ giao, tìm hiểu. Cô đã làm một lỗi lầm đáng trách, đó là đã qúa vội đem cả gia đình, cha mẹ, các em mình  nhét vào trái tim của  người yêu, trong khi trái tim ấy đang chỉ muốn dành hết chỗ cho một mình cô lúc này. Và đã không thiếu những quan hệ lứa đôi đã hoàn toàn bết tắc vì thiếu sót này.

Giáo dục con đầu lòng sẽ không là ngăn chặn tính kiêu căng, lười biếng của đứa con độc nhất, nhưng là ngăn chặn tính bao sân, ôm đồm muốn lo hết cho đàn em của chị cả, anh hai.    

3.   Các con ở giữa:
Các con ở lừng chừng, không đầu, không cuối, không cả, không út này thường có chung một kinh nghiệm: ít được cha mẹ quan tâm và phải thường xuyên chiến đấu để sống còn. Không hưởng quy chế “con trời, con vua” như đứa con độc nhất, không có đôi vai rộng để cùng cha mẹ gánh vác việc nhà, chuyện đàn em như anh hai, chị cả, cũng không được miễn trừ mọi việc và được nâng niu như con út, đám con ở giữa này thường biết thân biết phận và bảo nhau phải biết sống. Biết lúc nào lên được và lúc nào phải xuống, nếu muốn được yên. Biết làm đúng việc, đúng thời để tránh  mâu thuẫn. Biết nhìn trước sau để không là tác giả gây “tai nạn” trong nhà. Tóm lại, đám con ở giữa sẽ rất biến báo, khéo léo để không bị thiệt thòi, vì chúng biết chúng không được quy chế đặc biệt nào chở che.
Thường thì mặc cảm ít được quan tâm xâm lấn tâm tư các đứa con ở giữa. Thí dụ : việc các bé phải mặc lại quần áo cũ của anh chị cũng đã là điều gây nên một thoáng mặc cảm không được coi là duy nhất. Các bé dễ có cảm tưởng bị cha mẹ xếp thành hàng và thay tên bằng những con số và mặc cảm mất cá tính, nhân vị dễ bộc phát nơi các bé.
Tâm lý của những đứa con “không đầu không cuối” này thường dễ chao đảo trước bất cứ hành động, thái độ nào của cha mẹ. Chỉ cần một cử chỉ không khéo của mẹ, em bé có thể mất hết thăng bằng tâm lý và rơi vào tình trạng bị khủng hoảng tinh thần.
Với các em bé này, cha mẹ cần biểu lộ quan tâm đồng đều và cá nhân để các bé nhận ra: mình không phải là những đứa con hạng hai so với chị hai, anh cả, em út.

4.   Con út:
Tất nhiên với con út cha mẹ luôn nghĩ: đó là đứa con bị thiệt thòi hơn các anh chị khác, vì cha mẹ đã già  không còn lo được cho con nhiều như các anh chị. Nếu gia đình làm ăn khấm khá, cô út, cậu út sẽ “thưà thắng xông lên” như diều gặp gió tha hồ được cưng chiều, hưởng thụ. Nếu chẳng may gia đình rơi vào cảnh khánh kiệt, xuống dốc thì cha mẹ  cũng sẽ cố hết sức tìm mọi cách  bù đắp cho cô út, cậu út. Như thế, đàng nào thì con út cũng sẽ được  cha mẹ cưng chiều và ưu tiên trong sinh hoạt gia đình.
Con út còn một thuận lợi khác là cha mẹ  thường liên tưởng đến những ngày đầu yêu nhau khi họ có đứa con sau cùng, vì định luật liên tưởng: bao giờ cái sau cùng cũng đánh thức cái đầu tiên, và  đích tới luôn gợi về khởi điểm.
Cô, cậu út sẽ được cha mẹ thương hơn, chiều hơn, nhưng cũng là lý do để bị anh chị ghen ghét, kiếm chuyện. Để trụ được trong chỗ đứng ưu tiên và để tự vệ, con út sẽ dùng mọi chiến thuật để không bị ăn hiếp. Em sẽ dựa vào cha mẹ như ô dù vạn năng. Với anh chị, em sẽ tùy cơ ứng biến, “mềm nắn rắn buông”, theo tình hình mà lên xuống, nặng, nhẹ. Nói tóm lại, em sẽ phải liên tục chiến đấu và cẩn mật đề phòng để không mất đi lợi thế “con út” của mình. Kết quả là em sẽ được cha mẹ bảo vệ tối đa, cực kỳ che chở, thường xuyên bênh đỡ. Em trở thành một “yếu nhân” được mọi người đặc biệt chú ý hoặc để ghen ghét, kiếm chuyện, hoặc để bảo vệ, chở che. Đời sống của em vì thế mà trở nên căng thẳng, ngột ngạt… vì vừa bị soi bói vừa được bảo vệ.  
       

Là cha mẹ, không ai tiên liệu chính xác những vấn đề của con cái, cũng như không ai nắm hết trong tay tương lai của con mình. Bằng chứng sống động là cách đầy không đầy hai mươi phút, người viết nhận được tin nhắn của một người cháu làm linh mục trong một họ đạo thuộc khu dân cư gồm đủ “đầu trâu mặt ngựa, đá cá lăn dưa” lúc nào cũng sôi sục “đâm chém”. Con số tội phạm tệ đoan trong vùng này cao nhất nước. Cha vừa báo tin buồn: con trai bà thơ ký của nhà xứ mới 16 tuổi vừa bị băng đảng đâm lủng phổi. Cấp cứu không kịp đã tắt thở sáng nay. Bà chỉ có một con trai duy nhất !
Nhưng làm cha mẹ cũng bị bổn phận bó buộc phải tiên liệu ngày mai của con cái trong khả năng của mình.
Tiên liệu là thực hiện ngay bây giờ và ở đây chủ trương yêu thương đồng đều giữa con cái, yêu thương cá nhân từng đứa, yêu thương qua đối thoại, yêu thương nhờ lắng nghe, yêu thương  bằng quan tâm, chăm sóc.
Tiên liệu là không rơi vào hai thái cực trong giáo dục : hoặc quá thả lỏng, hoặc quá bao bọc. Thả lỏng làm con mất hướng, lạc đường. Bao bọc làm con ngột ngạt, không tự lập và mất khả năng sáng tạo.
Tiên liệu là không đánh giá thấp cũng không quá kỳ vọng. Đánh giá thấp con là hạ nhục con, gieo trong con mặc cảm “vô tích sự”. Kỳ vọng quá sẽ sớm quật ngã con  vì chất trên con những gánh nặng không thể mang vác.      
Tiên liệu là mở cho con  cảnh cửa vào thế giới bên ngoài, cánh cửa đến với người khác.
Tiên liệu là làm cho con cảm thấy an toàn, bình an và hạnh phúc ngay hôm nay, trong gia đình này.
Tiên liệu là luôn giữ “đường giây nóng” của tình cha con, mẹ con, nhất là khi con gặp khó khăn, thử thách.
Tiên liệu là không bao giờ cảm thấy đủ tình yêu cho con, nhưng lại thấy dư thừa tham vọng trên con, vì tình yêu nâng con lên, và tham vọng dìm con xuống. 
Tiên liệu là đưa con vào trời rộng và không nhốt con trong tù ngục ích kỷ.
Tiên liệu là làm cho con đứng được một mình mà không cần tay mình vịn giữ.
Tiên liệu là nhìn con cười, ngắm con chơi, nghe con thủ thỉ mà không cho là mất thời giờ, vô ích.
Tiên liệu là nói với con mỗi ngày: “cám ơn, tạm biệt, xin lỗi, ngủ ngon nhé, thương con nhiều”.
Và tiên liệu là từng phút giây không quên mình là người đã ban sự sống cho những con người mang cùng tên “Con” và gọi mình là “Cha Mẹ”.

LỄ THÁNH PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ TÔNG ĐỒ


Đặc điểm chung của các thánh Tông Đồ là “chịu đựng đau khổ” khi “làm công việc của người loan báo Tin Mừng”, điều mà thánh Phaolô, Tông Đồ dân ngoại đã khuyên nhủ Timôthê, môn đệ của mình (2 Tm 4,5).
Thánh Tông Đồ dân ngoại khuyên nhủ như vậy, vì ngài đã có nhiều kinh nghiệm  đau thương với những người đã gây nhiều khốn khổ cho ngài, những người ngoài mặt thì thơn thớt nói cười, nhưng lòng dạ thì mưu mô, hiểm độc, kể cả bạn hữu cũng chẳng có ai bênh vực, nâng đỡ, nhưng dửng dưng bỏ mặc ngài trong cơn khốn quẫn, cơ cực (x. 2 Tm 4,14.16).
Cùng với thánh Phaolô, Tông Đồ trưởng Phêrô cũng lấy những kinh nghiệm “chịu đau khổ vì danh Đức Giêsu” của riêng mình mà khuyên nhủ các tín hữu: “Anh em đang bị lửa thử thách: đừng ngạc nhiên mà coi đó như một cái gì khác thường xảy đến cho anh em. Được chia sẻ những đau khổ của Đức Kitô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng đươc vui mừng hoan hỷ” (1P 4,12-13).       
Thực vậy, cuộc đời tông đồ của hai thánh Phêrô, Phaolô là cuộc thương khó nối dài của “Đức Giêsu chịu đóng đinh” mà các ngài yêu mến, tôn thờ, phụng sự. Chính Đức Giêsu chịu đóng đinh là lẽ sống, gương mẫu và cùng đích của đời tông đồ khởi đi từ ngày các ngài “lập tức bỏ thuyền, bỏ cha lại mà đi theo Người” (Mt 4,22), cho đến giây phút cuối đời, người thì bị chém đầu, người thì chịu đóng đinh ngược tại Rôma, nơi hai vị loan báo Tin Mừng, với tâm tình khiêm tốn của người tôi tớ trung tín đã đi đến cùng đường và chu toàn bổn phận được ông chủ trao phó, như chia sẻ của thánh tông đồ Phaolô với môn đệ Timôthê của ngài: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công  sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày đó, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện” (2 Tm 4,6-8).
Như thế, đời tông đồ cũng như đời những người đi theo Đức Giêsu là đời chịu đau khổ. Nói cách khác, lịch sử Giáo Hội là lịch sử được viết bằng máu và nước mắt của những người đi theo Đức Giêsu chịu đóng đinh, như Đức Giêsu đã báo trước:
1.   Giáo Hội là mục tiêu chống phá của thế gian, ma qủy:
Nếu trước mặt Đức Maria và thánh Giuse, dịp dâng Hài Nhi Giêsu cho Thiên Chúa cụ già Simêon đã tiên báo: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ítraen ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng…” (Lc 2,34), thì Đức Giêsu, khi lập Giáo Hội cũng đã  báo trước cho các tông đồ: “Phêrô, con là Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16,18).
Đức Giêsu đã không ngần ngại cho các Tông Đồ biết: Hội Thánh của Ngài sẽ là một Hội Thánh luôn bị quyền lực của Thần Dữ tức Satan và toàn thể bè lũ tìm cách chống phá, tiêu diệt, một Hội Thánh sẽ không bao giờ được yên, nhưng  không ngừng bị ma qủy gây hấn, tìm mọi cách làm suy yếu, sụp đổ.
Chúng chống phá bằng tạo “thù trong, giặc ngoài”, gây chia rẽ nội bộ, đồng thời làm bùng cháy, sôi sục  lòng ganh ghét, căm phẫn từ bên ngoài  để  phá hoại tình yêu hiệp nhất, hiệp thông trong Hội Thánh, để các chi thể của Thân Thể không còn yêu thương, nhưng ghen tương, đố kị, đấu đá, tranh giành, tiêu diệt lẫn nhau, và biến tập thể những người đi theo Đức Giêsu thoái hoá thành một đoàn lũ  những nguời dị hợm, đáng kinh tởm, và kẻ thù đáng ghét của mọi người.
2.   Người của Hội Thánh bị truy lùng, bách hại:
Sách  Công Vụ Các Tông Đồ đã kể lại những gian truân, thử thách, truy lùng, bắt bớ, tra tấn mà các thánh Tông Đồ, cũng như giáo hữu  buổi đầu của Giáo Hội  phải gánh chịu khi rao giảng Đức Giêsu chịu đóng đinh, và lịch sử với chiều dài hơn hai ngàn năm của Giáo Hội đã là bằng chứng hùng hồn về “đường lối trước sau như một” của ma qủy và những người iđ theo chúng: “chống phá Giáo Hội và truy diệt người của Giáo Hội đến cùng”.
Điều này Đức Giêsu cũng đã báo trước, khi nói với Nhóm Mười Hai: “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước… Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em… Họ sẽ làm tất cả những điều ấy chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai Thầy” (Ga 15, 18.20-21), nên ở đâu và thời nào, người môn đệ của Đức Giêsu cũng bị “thế gian” bới móc, vu khống đủ điều, gây khó dễ trăm nỗi, và tìm mọi cách hãm hại, lên án, tiêu diệt, tuy mỗi thời mỗi cách, mỗi nơi mỗi kiểu. 
Vâng, hơn ai hết, hai thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ, tiên phong và rường cột của Giáo Hội đã suốt đời gắn bó với Đức Giêsu chịu đóng đinh, suốt đời thông phần đau khổ của thập giá Đức Giêsu, suốt đời “chịu thương chịu khó” để Đức Giêsu chịu đóng đinh được rao giảng, suốt đời yêu mến, phục vụ Giáo Hội là Hiền Thê yêu dấu của Đức Giêsu mà không quyền lực tử thần nào có thể thắng nổi, để   hoàn cảnh truyền giáo không luôn thuận lợi, vì “sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo lý lành mạnh, nhưng theo những dục vọng của mình… Họ sẽ ngoảnh tai đi không nghe chân lý, nhưng hướng về những chuyện hoang đường” (2 Tm 4,3-4), các ngài vẫn  “chịu đựng đau khổ”, kiên trì rao giảng, phục vụ Giáo Hội; dù bị mọi người đối xử tàn ác, bạc bẽo, kể cả bị người thân, bạn hữu phản bội, bỏ rơi, các ngài vẫn tin tưởng và thầm nhủ “có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng” (2 Tm 4,17); dù bị đe dọa, truy lùng, bắt bớ, giam cầm, hành hạ, các ngài vẫn tràn đầy niềm hy vọng  được “Chúa cứu thoát khỏi nanh vuốt sư tử… và mọi hành vi hiểm độc” của ác nhân (2 Tm 4,18), như thánh Tông Đồ trưởng Phêrô đã hạnh phúc thốt lên khi được thiên sứ dắt ra khỏi ngục trong đêm trước ngày bị vua Hêrôđê đem ra xử: “Bây giờ tôi biết thực sự là Chúa đã sai thiên sứ của Người đến, và Người đã cứu thoát tôi khỏi vua Hêrôđê, và khỏi mọi điều dân Do Thái mong muốn tôi phải chịu” (Cv 12,11).   
Mừng kính hai thánh Tông Đồ Phêrô, Phaolô, chúng ta hiệp thông cầu nguyện cho Giáo Hội, cho Đức Thánh Cha, và các Đấng Bản Quyền địa phương. Xin Chúa, qua lời cầu bầu của hai thánh Tông Đồ, rường cột của Giáo Hội ban cho các Đấng Bậc trong Giáo Hội tinh thần “chịu đựng đau khổ” vì “Đức Giêsu chịu đóng đinh”, bởi chỉ Thánh Giá trên đó Đức Giêsu dâng mình làm Của Lễ mới chiếu toả ánh sáng Tình yêu, Sự Sống và ban ơn Cứu Độ của Thiên Chúa, vì chính Ngài, Ngôi Lời của Thiên Chúa, Đấng sáng lập Giáo Hội đã chọn Thánh Giá để cứu chuộc loài người, và môn đệ của Ngài, để được trở nên khí cụ của ơn Cứu Độ trong tay Thiên Chúa cũng phải “đồng hình đồng dạng” với Đức Giêsu chịu đóng đinh, bởi đó là Thánh Ý của Ngài: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14,27). 
Jorathe Nắng Tím