Tìm kiếm Blog này

Thứ Năm, 2 tháng 5, 2019

ĐỨC GIÊSU Rất Tình !

Suy Niệm TIN MỪNG CHÚA NHẬT III PHỤC SINH (Ga 21,1-17) 
Tin Mừng Gioan hôm nay làm nổi bật chân dung một Đức Giêsu Rất Tình với các môn đệ và với Phêrô, môn đệ đã chối mình. 
Được gọi là có tình, rất tình với nhau khi người ta quan tâm đến nhau. 
Đức Giêsu sau khi sống lại đã biểu hiện tình yêu của mình với các môn đệ khi hiện ra với các ông và quan tâm đến hiện trạng của các ông khi lắng nghe các ông than thở : “không có gì ăn” (Ga 21,5), vì “đêm ấy họ không bắt được con cá nào” (Ga 21,3).
Một nhóm ngư phủ chuyên nghiệp mà suốt đêm không bắt được con cá nào thì quả thực chết đói đến nơi. Và tình trạng thiếu thốn của các môn đệ đã là mối bận tâm hàng đầu của Đức Giêsu khi Ngài hiện ra thăm các ông. 
Quan tâm đến việc làm, sinh kế, Đức Giêsu còn quan tâm đến tình trạng đói no của các ông hôm nay, khi hỏi các ông : “anh em có gì ăn không ?” (Ga 21,5). Hỏi “có gì ăn không ?” là cách hỏi tế nhị tránh cho các môn đệ câu trả lời khó nói, vì Ngài biết các ông vất vả suốt đêm mà không bắt được con cá nào.
Quan tâm đến ai là muốn biết người ấy có hạnh phúc, bình an không. Nhưng quan tâm không chỉ dừng lại ở biết, mà được thôi thúc đi đến việc làm : làm tất cả để người mình yêu được hạnh phúc lớn nhất, trọn vẹn nhất. 
Đức Giêsu đã không quan tâm để chỉ biết các môn đệ là những người mình yêu đang gặp khó khăn kinh tế, nhưng giúp các ông ra khỏi bế tắc bằng chỉ cho các ông : “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá” (Ga 21,6) và làm phép lạ cho cá vào lưới nhiều đến độ “không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá” (Ga 21, 6). Và bữa ăn có cá tươi vừa bắt từ biển hôm ấy ngay trên bờ biển đã đem lại niềm vui khôn tả cho cả Thầy và trò. 
Tuy vậy, quan tâm đến sinh kế, miếng cơm manh áo mới chỉ là một phần bổn phận của tình yêu nơi những con người sống rất tình với người khác. Còn một quan tâm khác bên cạnh không kém quan trọng , đó là bình an trong tâm hồn. 
Đức Kitô sống lại đến thăm các môn đệ và ban bình an cho các ông. Ngài biết các môn đệ của mình vừa trải qua một cơn thử thách nặng nề hơn nghìn lần ác mộng, vì những gì xẩy ra quả thật vượt xa những tang thương, đổ nát và ê chề thất bại các ông có thể tưởng tượng. Hỏi ai trong các môn đệ Đức Giêsu đã có thể nghĩ có ngày Thầy mình sẽ bị kết án là tên phiến loạn, trong khi Ngài vẫn tôn trọng chính quyền và công khai trả lời : “Trả cho Xêda những gì thuộc về Xêda” (Lc 20,25), nghĩa là Ngài không xách động dân làm loạn, chống lại nghĩa vụ đóng thuế cho chính quyền Rôma ; hỏi ai trong các ông có thể nghĩ. Thầy mình sẽ bị toàn dân đả đảo nguyền rủa lộng ngôn, phạm thượng mặc dù suốt đời Ngài chỉ làm theo thánh ý Chúa Cha và hỏi ai trong họ có thể nghĩ sẽ có ngày Thầy mình bị đem đi đóng đinh, ô nhục trần truồng chết trên thập giá, trong khi cả một đời chỉ rao giảng và thực hiện Yêu Thương. Chẳng thế mà đã ba lần báo trước : “Thày sẽ lên Giêrusalem để chịu chết” (Mt 16,21), nhưng không môn đệ nào đã tin, và Phêrô, anh trưởng nhóm còn tỏ ra khó chịu, can ngăn (Mt 16,22-23). 
Vì thế, tâm hồn các môn đệ những ngày sau biến cố tử nạn của Đức Giêsu vẫn còn tan nát, héo hắt, hoang mang, hoảng sợ, không chỉ vì mất Thầy, mất người lãnh đạo, mất chốn tựa nương, mà còn mất hướng đi, mất lẽ sống, mất điểm tựa, mất tinh thần, mất niềm tin, mất hy vọng, mất những gì đã xây dựng và mất luôn những gì ấp ủ, ước mơ.
Đức Giêsu biết các ông khổ lắm, khổ vì mất hết đã đành, mà còn khổ vì miệng đời nguyền rủa, ngạo nghễ, cười chê. Và trong tất cả Phêrô là người đau khổ nhất. Phêrô không chỉ khổ nỗi khổ chung của anh em môn đệ, mà còn đau vì mặc cảm phản bội, vì đã yếu đuối chối  không quen biết Đức Giêsu . Biết Phêrô  đau khổ rất nhiều, Đức Giêsu đã đặc biệt rất tình với ông. Với ba lần cùng một câu hỏi : “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không ?” (Ga 21,15.16.17), Đức Giêsu đã cho ông biết tình Ngài bao la và ngàn triệu lần lớn hơn tội ông. 
Ba lần gặng hỏi đến nỗi Phêrô phải ngượng ngùng, Đức Giêsu cố ý tạo cho Phêrô cơ hội công khai tuyên xưng tình yêu của mình để ra khỏi mặc cảm trước anh em vì đứng đầu nhóm mà hèn nhát chối Thầy. 
Quả thực, ba lần kiên quyết, vững mạnh tuyên xưng : “Lạy Thầy, con yêu mến Thầy” đã xoá sạch vết tích tội lỗi và mặc cảm của ba lần yếu đuối, nhát đảm lầm lỡ thốt ra lời phản phúc : “Tôi thề là không biết người ấy là ai !” (Mt 26,74). 
Ở đây, chúng ta cần nắm bắt một điều rất quan trọng là nền tảng cho sự sống của các cộng đoàn Kitô trong mọi thử thách, đó là dù thế nào đi nữa, dù bị bách hại đến đâu, dù mất hết không còn gì, dù bị chính quyền truy lùng, giáo quyền xua đuổi, bỏ rơi, trục xuất, các môn đệ của Đức Giêsu sau những ngày Thầy tử nạn vẫn gắn bó ở với nhau trong tình yêu huynh đệ, bằng chứng là các ông no đói có nhau, cùng tìm về nghề cũ, cùng kiếm kế sinh nhai. Khung cảnh Đức Giêsu hiện ra hôm nay, chính là khung cảnh gắn bó huynh đệ giữa các môn đệ. Đó là điều quan trọng nhất các ông đã giữ lại được cho mình trong khi tất cả đều đã mất hết. Các ông đã giữ được điều cốt yếu học được từ Thầy là  “Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). 
Khung cảnh yêu thương giữa các môn đệ với nhau và rất tình giữa Đức Giêsu và các môn đệ năm xưa là ước mơ, cố gắng và lời cầu xin của chúng ta mỗi ngày cho Giáo Hội.
Xin Chúa thương xót và tiếp tục “rất tình” với chúng con. Ước gì chúng ta biết làm chạnh lòng Thiên Chúa bằng cố gắng sống tình với nhau mỗi ngày, như Chúa dạy. 
Jorathe Nắng Tím

MÙA HOA !

Thưở đất nước còn nghèo, người dân không chỉ “thắt lưng buộc bụng”, mà còn “buộc miệng thắt lòng” lo từng bữa ngô sắn, vậy mà có lúc ngô sắn cũng chẳng có, nên mấy ai nghĩ đến chuyện trồng hoa, tặng hoa, ngắm hoa. 
Hôm nay thì hoa đã khởi sắc trong tâm hồn và nhiều người đã biết giá trị làm đẹp cuộc đời, làm vui lòng người, “thay lời người muốn nói với người” của hoa và đây đó những vườn hoa rực rỡ, những tiệm hoa trải dài làm người ta thân quen lại với hoa .
Ngày xưa coi thường hoa vì cho rằng hoa không phục vụ nhu cầu đích thực của con người, nên hoa không được đứng ngang hàng với luống khoai, cụm sắn, vì sắn khoai nuôi ăn, làm no bụng, trong khi hoa chỉ để chơi, chẳng nuôi được ai ; hoa không được trân quý, gìn giữ, bảo vệ, nên một thời rất dài hoa đã hoàn toàn khuất bóng, và người ta đã làm mặt lạ với hoa. Nhẫn tâm hơn, khi cao trào sôi nổi, người ta đã phá những vườn hoa mang tầm vóc công trình nghệ thuật quốc gia để lấy đất trồng mì, rau muống ngay giữa lòng thành phố.
Viết về hoa, thì điều quan trọng phải được nêu lên trước hết, đó là chỗ đứng của hoa trong thiên nhiên vạn vật. 
Không ai chối cãi được sự hiện diện bao trùm của hoa : ở đâu cũng có hoa, tít tắp trên đỉnh núi cao đến tận vực sâu thăm thẳm, và cả trong lòng biển bao la, hoa đều chen vai góp mặt ; rồi mùa nào hoa nấy, thời tiết nào hoa cũng rộn ràng tươi nở, bất kể xuân, hạ, thu, đông, dù nóng như thiêu đốt giữa sa mạc, hay lạnh cóng như Bắc cực băng tuyết, cỡ nào hoa cũng khoe sắc, tỏa hương.
Tiếp đến là vẻ đẹp và hương thơm phong phú của hoa. Quả thực, không ai có thể tự phụ nghĩ mình biết hết các loại hoa, cũng không nhà thực vật nào dám nghĩ mình nắm hết trong tay đặc tính của từng loài hoa. 
Tuần qua, người viết thật bỡ ngỡ khi đọc tài liệu về một loài hoa có tên latinh : Amorphophallus titanum với độ cao 3 mét, và tỏa ra chung quanh đến 800 mét một mùi thối làm nôn mửa. Điều thật bất ngờ là hoa lại cho mùi thối, chứ không cho hương thơm như mọi người thường nghĩ, cũng như thân cây đáng lẽ thẳng, thì lại có loại cây thân cong queo, uốn éo đến 90 độ như một loại cây trong khu rừng Krzywy ở Ba Lan.
Với chỗ đứng bao trùm và hương sắc phong phú, hoa đã có những đóng góp lớn trong thiên nhiên, vũ trụ cũng như trong sinh hoạt đời sống của con người:
1.       Hoa làm đẹp thiên nhiên :
Không thể bỏ quên hoa trong công trình thiên nhiên tuyệt đẹp của Thượng Đế, vì hoa làm đẹp trái đất ; hoa tô điểm địa cầu; hoa làm không gian khô khan, cằn cỗi trở nên tươi thắm, dịu dàng, lôi cuốn.  
Hoa biến đất chết thành đất sống, làm cho đất bị nguyền rủa thành đất hứa. Không chỉ làm đẹp đất xấu, hoa còn làm hiền đất độc, làm trẻ đất già nua, làm mầu mỡ đất son sẻ.
 2. Hoa đóng góp vào đời sống con người :
a. Khi làm phấn khởi lòng người : 
Ai cũng vui hơn khi ngắm huệ xinh lúc vui, bớt buồn nếu được ở bên nàng cẩm chướng khi u sầu, nguôi ngoai tâm sự dưới dàn thiên lý vô tư lả lơi trước gió, và nhẹ lòng trước hồn nhiên, thanh thản của đám cúc vàng thích nhí nhảnh đùa vui.
Hạnh phúc của hoa mang lại cho con người là dịu ngọt của sự sống, an ủi của niềm tin và vui mừng của hy vọng. Hoa không biết nói như con người nhưng biết đồng cảm với con người và biết gợi lên trong tâm hồn con người những tình cảm tích cực góp phần xây dựng hạnh phúc con người trong cuộc sống.
Người yêu hoa yêu đời và dễ yêu người hơn những người không thích hoa, vì hoa giúp điều chỉnh tình cảm, nuôi dưỡng tình cảm cao thượng, làm phong phú và bền vững tình cảm chân chính. Người yêu hoa học được nhiều điều hay, lãnh hội nhiều giá trị từ dáng dấp, hương sắc, sinh hoạt của hoa. Nếu hoa trinh nữ bẽn lẽn, e ấp cho ta nhận ra nét đẹp của tính đằm thắm, liêm sỉ, thì đóa hồng nhung thắm đỏ chỉ cho ta hạnh phúc của tình yêu tha thiết, nồng nàn, hoặc như cánh quỳnh lan dậy ta cái mong manh, chóng qua của kiếp người. Vấn đề là chúng ta có học ở hoa những bài học quý giá mà Thượng Đế đã kín đáo gửi gắm qua mỗi nụ hoa, từng cánh hoa được tạo dựng từ tay Ngài.
 b. Hoa nói thay con người :
Nói thay con người khi con người không biết phải nói gì, hay không tìm được lời để diễn tả tâm tình và điều muốn nói.
Trước Thượng Đế, con người đôi khi bất lực, không “nói được nên lời” trước ơn thiêng phúc lạ nhận được, nên phải cậy nhờ đến hoa, nhờ hoa nói giùm, cậy hoa giúp diễn tả lòng yêu mến, tri ân.
Hoa sẽ giúp nâng tâm hồn lên cao, làm cho lời cầu nguyện thêm sốt sắng ; hoa sẽ hiệp lực cùng con người cung kính tôn thờ, khiêm tốn tạ tội, và thành khẩn van xin. Chính trong tâm tình này mà nhiều người đã yêu hoa, vì muốn được cùng hoa ca ngợi Đấng mình yêu mến.
Trước người khác, hoa cũng làm công tác “thay lời muốn nói và thay người muốn nói”. 
Có rất nhiều điều ta không thể nói với ai đó bằng lời, mà ngay cả có đủ lời cũng không thể nói được. Trong những trường hợp này sẽ chỉ có hoa mới đủ khả năng đảm nhận và hoàn thành xuất sắc sứ mạng “thay người muốn nói và nói thay người những điều khó nói”.
Như yêu ai, ta đâu dễ tỏ tình, vì cơ hội không luôn thuận lợi, và khó tiên liệu phản ứng của đối tượng yêu. Nhưng với bó hồng tươi thắm, tình ta đã được tỏ, lời yêu trong tim đã được nói.
Để chia sớt khổ đau với người bạn thân vừa mất mẹ, hoa tím ân tình sẽ thay ta nói lời nghẹn ngào, và hoa trắng tiễn đưa sẽ giúp ta gửi trao niềm thương tiếc.
Và trong mọi cảnh huống khó nói, khó diễn tả tâm tình, hoa luôn có mặt và sẵn sàng thay ta, giúp ta thực hiện tốt sứ mệnh chuyển tải thông tin, gửi trao tâm tình. 
Hoa còn phản ánh tình trạng tâm hồn của chính ta, khi ta mượn hương hoa, sắc hoa để nói với chính mình, như khi vui, ta muốn có bình hoa đủ mầu rực rỡ, nhưng khi buồn, ta chỉ muốn một mình lặng lẽ với bóng mimosa.
 Mùa hoa về, muôn sắc hoa đua nở cũng là lúc tâm hồn mỗi người được mời gọi mở ra với Trời, với người và với chính mình. 
Mở ra với Trời trong niềm vui tri ân Đấng Chủ Tạo của muôn hoa trên địa cầu ; mở ra với người qua ngôn ngữ thanh cao, thân thương, ý nhị, khôn ngoan, đằm thắm và hiệu nghiệm của ngàn hoa quanh ta trong đời ; mở ra với mình trong diệu vợi, nhiệm mầu của hương hoa thanh khiết, dịu dàng luôn làm say mê, nao nức tâm hồn người lữ khách đường xa.
Tháng Năm bắt đầu bằng truyền thống tặng nhau hoa “muguet” hạnh phúc, cử chỉ ăm ắp tình người, tràn đầy kính trọng, thương mến, như khởi điểm của hành trình đến với Trời, gặp gỡ nhau, tìm về chính mình luôn được làm mới lại mỗi mùa hoa về. 

Jorathe Nắng Tím