Tìm kiếm Blog này

Thứ Sáu, 2 tháng 11, 2018

Suy Niệm TIN MỪNG CHÚA NHẬT 31 TNB : Mc 12, 28-34

                         
   Do Thái giáo là đạo có rất nhiều lề luật, nhiều đến độ đi đâu, ở đâu, tín đồ cũng bị luật xâm xoi, xét nét; làm gì cũng bị luật trói buộc, đe loi, ngăm nghe trừng phạt. Người Do Thái giáo nói về luật như thực thể thần thiêng và chu chắm giữ từng đòi hỏi rất chi tiết của mọi điều luật. Chính vì tinh thần vị luật và trong bầu khí nặng nề, ngột ngạt vị luật này, câu hỏi đã được đặt ra cho Đức Giêsu hôm nay trong Tin Mừng Máccô : “Giới răn nào là giới răn trọng nhất ?” (Mc 12, 28).
   Nhiều người đã muốn hỏi Đức Giêsu câu hỏi này, vì tận thâm tâm, tất cả đều mong đợi một cải cách để đời sống đạo nhẹ nhàng, dễ thở hơn; để gánh lề luật từ nay sẽ bớt trì nặng đôi vai, nên khi  nghe viên ký lục đặt câu hỏi, ai nấy đều vui mừng, thở phào nhẹ nhõm.
     Trả lời trước đám đông, Đức Giêsu đã rất vắn gọn trình bầy Luật mới của Ngài:  “Giới răn thứ nhất là : Hãy lắng tai nghe, hỡi Israel, Chúa Thiên Chúa của chúng ta   Chúa độc nhất và ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết trí khôn ngươi và hết cả sức lực ngươi. Thứ đến là ngươi phải yêu mến đồng loại ngươi như chính mình. Hẳn không có giới răn nào khác lớn hơn các điều ấy”  (Mc 12, 29-31).     
    Đức Giêsu đã chính thức công bố đạo mới của Ngài là Đạo yêu thương : Yêu mến Thiên Chúa là Thiên Chúa độc nhất và thương mến anh em đồng loại như chính mình.
1.    Yêu mến Thiên Chúa là Thiên Chúa độc nhất:
  Thiên Chúa là Đấng Tạo Dựng độc nhất, là Đấng Cứu Độ độc nhất, là Đấng Quan Phòng độc nhất luôn gìn giữ, chăm nom các thụ tạo của Ngài, trong số đó, con người là thụ tạo được Thiên Chúa dấu yêu đặc biệt.
    Tính độc nhất nơi Thiên Chúa nói lên Thiên Chúa là Đấng toàn năng và tất cả chúng ta đến từ Ngài, thuộc về Ngài, quy chiếu về Ngài, và sẽ trở lại với Ngài. “Thuộc về Thiên Chúa” là căn tính và  hạnh phúc của con người. Thuộc về một Đấng toàn năng, chúng ta còn sợ ai, sợ gì ? Thuộc về một Đấng yêu thương, chúng ta còn lo lắng chi, xao xuyến  nỗi gì ? Thuộc về một Đấng nắm toàn quyền sinh tử của mọi thụ tạo, chúng ta còn băn khoăn, hoang mang gì trước tương lai ?
    Sở dĩ chúng ta chưa “toàn tâm, toàn ý, toàn thân” yêu mến Thiên Chúa, chưa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực yêu mến Chúa; chưa  yêu mến Chúa hết mình, yêu mến Chúa bằng cả đời sống, yêu mến Chúa bằng hết con người, là vì chúng ta chưa xác tín: Thiên Chúa là Thiên Chúa độc nhất.
     Vì chưa đủ tin Thiên Chúa là Đấng tạo dựng độc nhất, nên chúng ta vẫn chờ ở đâu đó một sức mạnh dự phòng, để giúp chúng ta, nếu Thiên Chúa chơi không đẹp , khi không nghe lời ta cầu xin. Vì chưa đủ tin Thiên Chúa là Đấng cứu độ độc nhất, nên chúng ta vẫn giấu giếm ở ngõ ngách nào đó trong cuộc sống một hình bóng thần linh khác với Thiên Chúa độc nhất, để hy vọng được cứu mạng, nếu chẳng may Thiên Chúa nổi giận bỏ rơi ta. Vì không dám đặt để trọn vẹn niềm tin nơi Thiên Chúa là Tình Yêu độc nhất tuyệt đối, nên phiá sau con tim, ta vẫn giữ những dáng dấp khác Thiên Chúa, với chút hy vọng sẽ được ủi an, vỗ về ngày Chúa nổi cơn lôi đình xua đuổi ta xa khỏi mặt Ngài. 
    Tóm lại, trong tương quan với Thiên Chúa, ta vẫn muốn đi nước đôi, vừa thân thiết với Thiên Chúa độc nhất, vừa thân thiện với những đối tượng không thân thiết, thân thiện với Thiên Chúa. Và tâm hồn ta sẽ ở trong tình trạng bị giằng co, căng thẳng, mâu thuẫn, cho đến khi ta thực sự và quyết tâm thuộc trọn về Thiên Chúa là Thiên Chúa độc nhất.
   Như thế, điều kiện để có thể yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực, nghiã là yêu một mình Thiên Chúa là Thiên Chúa độc nhất của đời ta từng giây phút của cuộc sống, yêu Thiên Chúa trong tư tưởng, lời nói, việc làm , yêu Thiên Chúa mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh, tình huống, thì tiên vàn chúng ta phải xác tín Thiên Chúa là Thiên Chúa độc nhất, và  tuyên xưng:  ngoài Ngài ra, không còn một thiên chúa nào khác.    
2.    Thương mến anh em đồng loại như chính mình:
  Giới răn thứ hai chỉ là mặt sau của giới răn thứ nhất: Yêu mến Thiên Chúa, bởi một khi đã “toàn tâm toàn ý, toàn thân” yêu mến Thiên Chúa độc nhất rồi, chúng ta sẽ tự động nhận ra hạnh phúc được thương mến anh em đồng loại như mình, bởi chính tình yêu Thiên Chúa thúc bách, lôi cuốn, hướng dẫn chúng ta đến với anh em, đi vào trái tim người khác bằng chính con đường tình yêu của Chúa.
   Như chúng ta biết, định luật tự nhiên và căn bản của tình yêu là thông ban hạnh phúc của mình cho người khác, do căn tính của tình yêu là : ước mơ và làm cho người khác được hạnh phúc. Vì thế, khi đã thuộc trọn về Thiên Chúa là Tình Yêu rồi, khi đã hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực yêu mến Thiên Chúa rồi, chúng ta không thể không thương mến anh em mình, bởi Tình yêu chúng ta dành cho Thiên Chúa thúc bách chúng ta trao ban hạnh phúc mình đang có trong tình yêu với Thiên Chúa cho mọi người chung quanh, bởi mọi người đều là đối tượng của một Tình Yêu độc nhất tuyệt đối là Thiên Chúa. 
   Kinh nghiệm còn cho chúng ta thấy: tình yêu rất năng động  và không bao giờ chịu ngưng nghỉ. Chẳng thế mà khi đã thực sự yêu ai, ta yêu đến cùng, yêu đến chết, yêu bất chấp mọi chống đối, rào cản, hoàn cảnh khó khăn. Tình yêu dâng hiến cho Thiên Chúa cũng vậy, sẽ không nằm yên hưởng thụ, không đóng cửa gài then, nhưng bung ra xa, mở rộng mãi, phóng  tới những đối tượng mới, những đối tượng không chỉ của tình yêu trong ta, mà còn là đối tượng của tình yêu Thiên Chúa . Nói cách khác, khi đã yêu Thiên Chúa rồi, ta không thể không yêu anh em đồng loại, vì lúc đó, ta không còn yêu anh em bằng tình yêu nhỏ bé, bất toàn của mình, nhưng bằng tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa, Đấng sẽ  dìu ta đến gặp tha nhân, bởi Ngài cũng yêu thương họ như yêu thương chúng ta.
    Hơn thế nữa, khi yêu ai, ta muốn họ hạnh phúc, bằng  làm vui lòng họ, nên ta sẽ qúy người họ yêu, thương người họ mến. Vì thế, sẽ không ngạc nhiên khi người yêu mến Thiên Chúa sẽ mến thương anh em mình, bởi đó là ý muốn của Thiên Chúa, bởi đó là điều làm vui lòng Thiên Chúa hơn cả. Sở dĩ Ngài muốn chúng ta yêu anh em đồng loại như chính mình, vì Ngài đã tạo dựng mọi người,  yêu thương mọi người, muốn cứu độ  mọi người, trao ban hạnh phúc cho mọi người , bằng cớ là Ngài đã chết cho mọi người được sống, cũng như làm mưa nắng trên cả người lành, kẻ dữ, không loại bỏ, ruồng rẫy một ai.   
     Vâng, Đức Giêsu đã đến trong thế giới, không  để loan báo khơi khơi một sứ điệp, và lập ra một tôn giáo mới với  giáo lý và lề luật nặng nề, gò bó;  nhưng vạch rõ con đường Tình Yêu  Chúa đã đến với con người và  hành trình Tình Yêu con người đến với Thiên Chúa. Trên con đường tình này, Thiên Chúa và con người gặp gỡ nhau cách sống động, cụ thể, trong mọi sinh hoạt của đời sống con người.
     Tóm lại, Thiên Chúa của Kitô giáo không  xa vời, huyền hoặc  nhưng  ở giữa con người để yêu thương. Tình yêu Thiên Chúa trong Đức Giêsu không còn là tình yêu chỉ để súyt xoa chiêm ngưỡng, nhưng là tình yêu  hiện diện, chia sẻ cứu sống về phiá Thiên Chúa, đồng thời về phiá con người, tình yêu ấy  làm rạo rực  tim người, làm phấn khởi đời người, và mang về hạnh phúc cho con người biết yêu mến Thiên Chúa và mến thương anh em mình.
    Tin Mừng là Lời Thiên Chúa, và Lời Thiên Chúa là chân lý vĩnh cửu, nên chúng ta sẽ không còn thắc mắc như những người Do Thái xưa : Giới răn nào là giới răn trọng nhất ?  Bởi chỉ có một giới răn duy nhất dành cho những người đi theo Đức Giêsu, đó là yêu mến Thiên Chúa là Thiên Chúa độc nhất, và  thể hiện tình yêu ấy bằng làm theo ý muốn duy nhất của Thiên Chúa, ý muốn vừa đẹp lòng Ngài, vừa đem lại hạnh phúc đời đời cho chúng ta là thương yêu anh em như chính  mình.

Jorathe Nắng Tím

CON CÁI THIÊN CHÚA


     Ngày 24 tháng 10 năm 2018, nước Mỹ giật mình khi hai em nữ sinh trung học cơ sở tuổi 13 và 14 lên kế hoạch giết 15 bạn học cùng lớp. Kế hoạch bị bại lộ ở phút chót, khi hai em đang trốn trong nhà vệ sinh và chuẩn bị lao vào lớp đâm chém. Cuộc điều tra cho biết: hai em gia nhập hội kín “Con Cái của Satan” và nghe tiếng thúc giục từ nhiều tháng phải giết đủ 15 người và uống máu của nạn nhân, như ý muốn của tướng qủy Satan đề nghị.  
    Những tổ chức, hiệp hội với mục đích phục vụ Satan và chống phá Giáo Hội của Đức Giêsu ngày càng nhiều. Hội viên gồm đủ thành phần, và hoạt động hầu như công khai, với những danh hiệu đại loại như : “Chiến Sĩ của Satan, Những người  xây dựng vương quốc Hoả Ngục, Đội Quân Thiện Nguyện, Thiện Chiến của Bóng Tối, Những tay Sát Thủ bất diệt...”.  Mục đích chung của những hiệp hội, tổ chức kín, hở này là đánh bật Đức Giêsu ra khỏi đời sống, sinh hoạt của con người, và quyết tâm khai tử Giáo Hội Công Giáo.
    Tại sao là Giáo Hội Công Giáo ? Vì Giáo Hội Công Giáo thực hiện đúng lệnh truyền và ý muốn của Đức Giêsu, khi tuyên xưng niềm tin của thánh Phêrô, Tông Đồ trưởng của Nhóm Mười Hai nơi Đức Giêsu Kitô : “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16), mà không đặt niềm tin nơi bất cứ ai, hay theo bất cứ niềm tin của người nào khác, nhưng chỉ là niềm tin của Phêrô đã được Đức Giêsu xác nhận : “Này anh Simôn, con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16,17). Đức Tin Công Giáo, vì thế, là đức tin tông truyền, nghiã là từ các thánh Tông Đồ, và mãi mãi cho đến tận thế, đức tin ấy cũng không đi ra ngoài Tông Truyền , nên  tinh tuyền, và đích thực.
   Một lý do khác, đó là Giáo Hội Công Giáo là Giáo Hội có phẩm trật, đứng đầu là Tông Đồ trưởng Phêrô, như ý muốn của Đức Giêsu : “Anh là Phêrô, nghiã là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chià khóa Nước Trời” (Mt 16,18-19). Nhờ thế, giáo lý của Đức Giêsu không bị bóp méo, hay cắt nghiã lệch lạc, và Tin Mừng của Ngài không bị xuyên tạc, thêm bớt, diễn dịch, loại suy một cách bừa bãi, vô trách nhiệm.
   Những phương thức chống phá, tiêu diệt Giáo Hội Công Giáo thì vô số kể, từ những đòn vu cáo để có cớ bắt bớ, đàn áp đến những trò chụp mũ, thổi phồng, tung hoả mù, gieo rắc hiềm khích, hạ uy tín, bôi nhọ danh dự, phá đổ ảnh huởng, chặt đứt các mối tương giao, cấm vận các phương tiện truyền giáo. Tất cả những việc Satan và những người thuộc về Satan gây ra để làm hại Giáo Hội, thì Đức Giêsu đã cảnh báo các môn đệ của Ngài ngay khi Giáo Hội được thành lập, nên chúng ta không mấy ngạc nhiên: “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước...Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em” (Ga 15,18.20) .
   Nhưng điều làm chúng ta ngạc nhiên, là chính những hội mang tên “Con Cái Thiên Chúa” lại có đường lối, chủ trương như các hội của “Con Cái Satan”, điển hình là hội “Con Cái của Thiên Chúa” do cựu mục sư Tin Lành David Brandt Berg (1918 - 1994) thành lập năm 1960 tại Huntington Beach, California, Mỹ. Hội này bắt các thành viên phải khinh ghét và từ bỏ gia đình mình; bắt các thành viên nữ phải dùng sắc đẹp và thân xác để truyền giáo. Hội gọi phương cách truyền giáo bằng bán thân này là “Flirty- Fishing”. Sau ngày 4/12/1973 mà Hội công bố là ngày tận thế, số hội viên giảm sút trầm trọng, từ 100.000 chỉ còn 4000 vào cuối năm 1974.
    Như thế, chúng ta phải cẩn trọng và đừng nhẹ dạ nghe theo những giáo phái với danh xưng tuy không xa lạ, không gây xốc, nhưng thực chất hoàn toàn đối nghịch với giáo lý đức tin của Hội Thánh.
     Đứng trước đám đông tự nhận mình là Con Cái của Satan, chúng ta phải biết mình là Con Cái Thiên Chúa và tuyên xưng danh hiệu cũng như danh dự này, bằng ý thức địa vị vô cùng cao qúy chúng ta đã nhận từ tình yêu của Cha chúng ta là Thiên Chúa :
1.      Chúng ta là con cái Thiên Chúa, vì chúng ta được tạo dựng giống Thiên Chúa:
   “Thiên Chúa phán: Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất” (St 1,26).
    Con người giống Thiên Chúa vì được tạo dựng bởi Thiên Chúa, sinh ra từ ý muốn của Thiên Chúa, và nhận từ Thiên Chúa sự sống là Hơi Thở : “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2,7).
   “Đối với chúng ta, chỉ có một Thiên Chúa là Cha, Đấng tạo thành vạn vật và là cùng đích của chúng ta ; và cũng chỉ có một Chúa là Đức Giêsu Kitô, nhờ Người mà vạn vật được tạo thành, và nhờ Người mà chúng ta được hiện hữu” (1Cr 8,6).
2.      Chúng ta là con cái Thiên Chúa, vì thuộc về Thiên Chúa qua Giao Ước Yêu Thương:
     “Trời hãy nghe đây, đất lắng tai nào, vì Đức Chúa phán : Ta đã nuôi nấng đàn con, cho chúng nên khôn lớn” (Is 1,2).
    “Ta đã nói : “Có cách nào để Ta đặt ngươi trong hàng con cái ? Ta sẽ ban cho ngươi một miền đất hoan lạc làm phần gia nghiệp cao qúy nhất giữa chư dân. Ta đã nói : Ngươi sẽ gọi ta “Cha ơi !” Và ngươi sẽ không lià xa Ta nữa” ( Gr 3,19).
3.      Chúng ta là con cái Thiên Chúa, nhờ Tin vào Đức Giêsu Kitô :
      “Thật vậy, nhờ Đức Tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô” (Gl 3,26). “Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: “Cha ơi !” Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa” (Gl 4, 6-7).
     Tin Thiên Chúa tức là đón nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa, và “những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa” (Ga 1,12-13).
4.      Chúng ta là con cái Thiên Chúa khi sống giới luật yêu thương của Tin Mừng :       
a.       Yêu bằng một tình yêu lạ thường, triệt để :
     “Anh em đã nghe Luật dậy rằng : hãy yêu đồng loại và ghét kẻ thù, còn Thầy, Thầy bảo anh em : hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi ? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao ? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu ? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao ? Vậy anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,43- 48).
b.      Xây dựng hoà bình  trong cuộc sống :                 
  “Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9). 
    Những giòng trên ít nhiều cũng cho chúng ta thấy chỗ đứng làm con Thiên Chúa của mình. Thực vậy, Kinh Thánh đã qủa quyết, Đức Giêsu Kitô đã chứng thực và chúng ta có quyền vui mừng đón nhận vinh dự làm con Thiên Chúa.
     Có Chúa là Cha, chúng ta chẳng sợ gì ; có Chúa là Cha, chúng ta được sống hạnh phúc và chết bình an, bởi không danh dự nào lớn hơn danh dự được giống Thiên Chúa ; không bảo hiểm nào bảo đảm vững chắc hơn được nuôi nấng, bảo bọc bởi Thiên Chúa ; không kho tàng nào qúy giá hơn được thừa kế gia nghiệp của Thiên Chúa ; không hạnh phúc nào lớn hơn được yêu thương như Thiên Chúa yêu thương.
  Tối nay, ngoài đường phố, người ta hoá trang làm qủy dữ mừng ngày Halloween. Là con cái của Thiên Chúa Sự Sống, chúng ta nghĩ gì khi con em chúng ta tham gia lễ hội của thần chết ? Chúng ta có thể chấp nhận con cái của Thiên Chúa là con em chúng ta đầu quân trong hàng ngũ những người đi quảng cáo, “làm maketing” cho vương quốc của ma qủy, khi hoá trang làm qủy dữ đến gõ cửa từng nhà xin bánh kẹo ?
     Người viết đã trình bầy rất chi tiết về ngày Halloween với ý đồ rất thâm độc của những nhóm theo Satan trong tác phẩm “Xin Chớ Để Chúng Con Sa Chước Cám Dỗ”. Rất mong qúy bạn tìm đọc để hiểu rõ hơn cạm bẫy của Satan đang chiêu dụ con cái Thiên Chúa .
   Chúng ta cầu nguyện cho nhau và nhắc nhở nhau lời Đức Giêsu: “Ma qủy sàng chúng con như người ta sàng gạo” (Lc 22,31), để khỏi mất lòng tin và đừng nhẹ dạ đánh mất ơn làm con cái Thiên Chúa.
Jorathe Nắng Tím
                                                                                                         
                                                                                                                                                                                                                                                                    
  
    
   

 


THÁNH GIÁ Giữa Nghiã Trang!

     Paris vào thu và mùa thu Paris bao giờ cũng buồn : lá vàng đổ ngập  đường, gió đêm se lạnh, và ông mặt trời lười biếng, thức muộn. Trời buồn nên lòng người chùng  xuống, không vui : không vui vì vào mùa sụt sùi cảm cúm, chùng xuống vì thương nhớ người đã ra đi.
   Nhà tôi gần nghiã trang, từ cửa sổ căn phòng nhỏ trên lầu hai, tôi nhìn tường tận các ngôi mộ cũ-mới im lìm thẳng hàng thẳng lối, nhiều ngôi mộ tiêu điều, hoang vắng không thân nhân chăm sóc, bên cạnh những ngôi mộ được phủ kín bởi rừng hoa đủ loại.
     Tưởng nhớ người thân đã ra đi giữa nghiã trang toàn những người ngọai quốc xa lạ, nhưng tôi không thấy xa lạ chút nào, trái lại, tôi thấy họ rất thân quen và thấy mình gần gũi với họ.
    Tôi không thấy xa lạ người chết, dù người chết thuộc sắc dân, văn hoá, tôn giáo, trình độ hay giai cấp nào đi nữa, bởi tôi biết sẽ cùng họ chia sẻ thân phận phải chết. Đa phần vào đời trước tôi, một số ít sau tôi nhưng yểu mệnh vắn số, họ đã ra đi trước, để trở về đất hay tan biến thành tro trong lò hoả thiêu. Biết mình cùng thân phận phải chết, nên chân tôi vững chãi ghé thăm từng ngôi mộ và không còn thấy xa lạ, lạc lõng giữa nghiã trang ngoại quốc này, với ý nghĩ về một ngày xa gần không biết, tôi cũng sẽ nằm xuống im lìm thẳng hàng thẳng lối như họ đang nằm đây, hoặc sẽ nhỏ bé, không cồng kềnh, khi chỉ còn là chút tro với mấy mẩu xương nhỏ như cọng tăm được đặt đâu đó.  
   Chiều nay, tôi không thấy xa lạ những người đã chết, vì tôi biết, khi chết, tôi cũng sẽ như họ, nghiã là bất lực hoàn toàn khi sự sống quyết định rời bỏ thân xác ra đi. Tôi sẽ bất lực vì không còn sức khỏe, bất lực vì hết sức đề kháng, bất lực vì không thể vượt qua cơn bệnh, bất lực vì không còn ai có thể cứu tôi sống, bất lực vì không còn giữ được hơi thở dù rất nhẹ, rất khẽ; bất lực vì không còn khả thể kéo dài thêm sự sống, bất lực vì phương tiện cạn kiệt, bất lực vì thiện chí phải chào thua, bất lực vì là đọan kết cuộc đời, khi ở vào cây số sau cùng của hành trình đời người.
   Tôi  cũng không thấy xa lạ những người đã bỏ cuộc ra đi trước tôi, bởi khi hấp hối, tôi cũng sẽ đau đớn, ngắc ngoải, lo âu, miệng lưỡi cứng đơ, mắt nhắm nghiền muốn mở ra nhìn đời lần chót cũng không chắc được, chân tay co quắp, hơi thở đứt đoạn, nặng nhọc cho đến khi toàn thân rũ liệt, buông xuôi khi linh hồn ra khỏi xác. 
    Tôi càng không thấy xa lạ họ, vì tôi sẽ làm người nhà bật khóc nức nở, bạn hữu rơi lệ tiếc thương, kẻ thù vui mừng hớn hở, đối phương thở phào đắc chí và kẻ phản bội nhẹ lòng như tháo được khối đá khỏi cổ. Ngày an táng, tôi cũng sẽ như họ phải nằm im để nghe nhiều lời chia buồn thật giả : có người buồn nói lời chia buồn thật, có người nói lời chia buồn nhưng lòng vui như trúng số. Bên cạnh là những bó hoa cũng hư thực muôn mầu, bởi giữa rừng hoa phân ưu, thương tiếc sẽ không thiếu những vòng hoa tím ngắt xót xa, dạt dào thương tiếc của những lòng dạ đang tưng bừng mở hội.
  Vâng, tôi không còn thấy mình xa lạ với người chết, vì tôi chung một số phận “làm người phải chết” với họ. Họ chết trước tôi, tôi biết họ chết thế nào, nên đến phiên mình, hy vọng sẽ bớt lúng túng, ngờ nghệch, dù vẫn biết chẳng ai chết giống ai.
    Từ lạ thành  quen, tôi thấy mình là láng giềng quen thuộc của nhiều người đã ra đi, khi biết rằng sẽ chẳng còn mấy người nhớ đến họ và đến lượt mình cũng thế thôi. Người đời chóng quên, không hẳn vì họ muốn quên, cho bằng vì cuộc sống xô bồ, phải chạy đua với thời gian để tồn tại, nên nhớ người đã khuất không còn là một nhu cầu, một đòi hỏi được quan tâm. Người chết sẽ xa dần tim óc người sống, như tấm hình nhạt dần, phai dần, mờ dần với thời gian.
     Chiều nay, trước khi rời nghiã trang, tôi ngồi bên tượng Chịu Nạn ở giữa nghiã trang và ngước nhìn Đức Giêsu chịu đóng đinh. Hình ảnh Thiên Chúa ngoẹo cổ  tức tưởi chết trên Thánh Giá làm tôi rùng mình xúc động. Trong nỗi xúc động, tôi thấy Thiên Chúa thật gần gũi con người,  và là niềm hy vọng của  mọi người, khi Ngài chết như người có tội,  chết như kẻ gian phi.
  Thực vậy, người ta có thể không giống nhau về nhiều mặt, nhiều phương diện, nhiều khiá cạnh trong cuộc sống, nhưng tất cả đều giống nhau ở số phận phải chết, bởi ai cũng phải chết. Đức Giêsu Thiên Chúa đã chết như con người, để không ai có thể nói Thiên Chúa ở xa tít tắp, cao vút chín tầng trời, xa cách loài người, và chỉ làm người dở dang, làm người nửa vời, làm người nửa kiếp.
      Chết như con người, Thiên Chúa đã gần gũi con người đến tận cùng, gần gũi từng người trong thẳm sâu của thân phận người. Không chỉ gần gũi con người trong đời sống làm người, Thiên Chúa còn gần con người trong chính số phận làm người phải chết của mỗi người. Con người chết sao, Thiên Chúa chết vậy, chưa kể cái chết của Thiên Chúa còn tức tưởi, tang thương, cô đơn, cô độc, hiu hắt, bẽ bàng, bi thảm, thê lương, thiếu thốn, tầm thường gấp nhiều lần cái chết của đa số những người đã chết .Tất nhiên, cũng không thiếu những người đã chết khổ hơn, chết đau đớn hơn, chết vật vã hơn  Đức  Giêsu, nhưng ở ngôi vị Thiên Chúa,  là Thiên Chúa toàn năng mà chết như tội nhân, là Thiên Chúa Cứu Độ mà chết như người có tội, là Thiên Chúa tuyệt đối thánh thiện mà chết như kẻ gian ác thì chắc chắn không có cái chết nào của con người có thể so sánh!
   Chiêm ngắm Đức Giêsu Thiên Chúa chết như tội nhân trên Thánh Giá, tôi mới thấy Thiên Chúa gần gũi, yêu thương người có tội. Dù vô tội và tuyệt đối thánh thiện, Thiên Chúa làm người đã không chọn cái chết của người công chính ; chọn đám tang của vĩ nhân, người hung ; chọn kiểu ra đi của siêu sao, nhà lãnh đạo đương thời, nhưng chọn chết như một người có tội.
       Ngài có thể chết bình thường, không bi thảm máu me, không trần truồng ô nhục, không khăn liệm, mộ phần ; nhưng để người có tội, là thành phần đáng khinh bỉ của tôn giáo ; để tội nhân, là thành phần bị cuộc đời nguyền rủa, khước từ ; để phạm nhân, là thành phần bị cơ chế xã hội lên án, trừng phạt có chỗ nương dựa, có người cảm thông, có Đấng chở che, cứu độ, Thiên Chúa đã vui lòng chấp nhận chết như người có tội, như tội nhân bị nguyền rủa, như phạm nhân đáng phải chết.
     Chết như người có tội, Thiên Chúa đã bầy tỏ đến tận cùng lòng thương xót của Ngài đối với tội nhân. Đối với Thiên Chúa, tội lỗi đáng ghê tởm, nhưng tội nhân luôn luôn và mãi mãi đáng thương, đáng yêu, cần được cứu độ.
     Không những chết như tội nhân để tội nhân không mất niềm hy vọng được yêu thương, cứu rỗi, Đức Giêsu Thiên Chúa còn công khai bộc lộ lòng khao khát tìm kiếm tội nhân khi xin Chúa Cha “tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34). Họ đây là tất cả những người có tội. Ngài còn tha thứ và hứa Nước Trời ngay hôm nay cho anh gian phi cùng chịu đóng đinh bên phải Ngài (x. Lc 23, 43). 
     Qủa thực, tôi không thể tìm được tương quan nào có thể gần gũi, thiết thân hơn giữa con người và Thiên Chúa, khi ngước nhìn Thánh Giá và Thiên Chúa tự nguyện làm tội nhân chết treo trên đó. Không Thiên Chúa nào đã yêu con người đến cùng như Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô ; không thần linh nào có thể đi đến cùng tình yêu dành cho con người đến nỗi bị coi là điên khùng như Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô, và trong giây phút chiêm ngắm hình hài Thiên Chúa chết thảm thương, tôi khám phá ra lòng thương xót bao la vô cùng vô tận của Thiên Chúa là Tình Yêu tuyệt đối, để xác tín rằng : trong tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa, không tương đối nào của con người, kể cả tội lỗi có thể tồn tại, mà không tan biến trong lòng xót thương.
  Chiêm ngắm Đức Giêsu chết như con người nghèo khó, bị bỏ rơi, tôi thấy Ngài gần gũi những con người kém may mắn trong cuộc đời, nên từ nay có ai lớn tếng phán xét  người này chết lành, người kia chết dữ, ông này lên thiên đàng, bà kia xuống hoả ngục khi căn cứ vào cách chết, số người viếng thăm, vòng hoa phân ưu, phúng điếu, tang lễ long trọng, linh đình và mức độ hoành tráng của đám tang, chắc chắn tôi sẽ không quan tâm, vì có ai thánh thiện bằng Thiên Chúa, và có ai đã chết tức tưởi, thê thảm, khốn nạn, nghèo nàn, lặng lẽ  như Thiên Chúa trên Núi Sọ ? 
     Chiêm ngắm Đức Giêsu chết như người vô tội bị kết án oan uổng, bất công, tôi thấy Thiên Chúa thật gần gũi với bao thân phận bị hàm oan, vu khống, và đến giờ chết cũng không mấy người thấu hiểu, minh oan, trả lại danh dự, phục hồi nhân phẩm cho họ. Họ chết như tội phạm, như kẻ thù của xã hội, như kẻ phá hoại cộng đồng ; họ chết trong phẫn nộ của những kẻ tự nhận mình là người công chính ; chết nhục nhằn trong mắng nhiếc, chửi rủa, khinh mạn của những kẻ được họ làm ơn, trong khi dưới mắt Thiên Chúa, họ là ân nhân của nhân loại đã cống hiến cuộc đời để  xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.
    Chiêm ngắm Đức Giêsu chết như người tôi tớ trung tín, khiêm nhường, tôi thấy Thiên Chúa luôn gần gũi những người bé mọn, không tiếng nói, không quyền lực, không ảnh hưởng, không ô dù, không thế lực chống lưng. Và quả thực, Nước Trời thuộc về những người bé mọn này, vì họ được Thiên Chúa trung tín đồng hành suốt cuộc đời, cho đến giờ họ lâm chung.
   Chiêm ngắm Đức Giêsu chết như người “sống không nhà, chết không địa tang”, tôi thấy Thiên Chúa gần gũi với những mảnh đời rách bươm, lang thang “đầu đường xó chợ”. Ngài ở với họ trong cuộc đời cơ cực, và chết với họ trong “hoàn cảnh hậu sự” túng cực không mồ mả, ma chay, cúng giỗ.
     Trên đường về từ nghiã trang chiều nay, tôi không còn thấy mình xa lạ với những người đã chết, dù họ không là thân nhân, bạn hữu, hàng xóm láng giềng. Tôi gặp ở họ ở nhiều mẫu số chung, trong đó có thân phận làm người phải chết. Không còn xa lạ với họ, nhưng tôi không khỏi lo lắng về giờ chết của riêng tôi, vì biết ai cũng phải chết một mình, một mình đi vào cõi vô cùng, không hề được biết trước.
      Rất may, tôi gặp được Thiên Chúa làm người chết treo trên Thánh Giá, và Thiên Chúa chết như con người, chết cho con người ấy đã mang lại cho tôi niềm hy vọng được chết cùng Ngài, vì Ngài đã tự nguyện chết cùng mọi người như tội nhân, như người hèn mọn, yếu đuối, bị  khinh miệt, bỏ rơi.
    Có Thiên Chúa cùng chết, tôi sẽ an tâm chết, vì biết Thiên Chúa đã chết thay thân phận tội nhân của tôi, khi Ngài chết như người có tội. Có Thiên Chúa cùng hấp hối, tôi sẽ bình an trút hơi thở cuối cùng, vì có lời cầu xin ơn tha tội của chính Thiên Chúa : “Lậy Cha, xin tha cho họ !”. Có Thiên Chúa cùng chôn trong mồ, tôi sẽ yên nghỉ trong niềm hy vọng được cùng Ngài sống lại, vì Ngài luôn xót thương phận người yếu đuối, hèn mọn của tôi.
   Mùa thu có Chúa sẽ không còn là mùa thu buồn, với lá vàng lả chả rơi, như những con người nối đuôi nhau đi về cõi chết vô vọng. Nhưng từ khi có Chúa là Tình Yêu Thương Xót, muà thu cuộc đời chỉ còn những lá vàng đon đả, rộn ràng gọi nhau về cội, như đàn con hối hả, ríu rít rủ nhau về nhà Cha rất nhân hậu và giầu sang.
Jorathe Nắng Tím