NGƯỜI TRẺ CẦN ĐƯỢC ĐỒNG HÀNH
Giáo
Hội là đoàn thể những người cùng đi theo Đức Giêsu, như đám đông ngày xưa đã
kéo nhau đến nghe Ngài giảng “Tám mối phúc thật” (x. Mt 5,1-12), như “đám đông
lũ lượt đi theo Ngài và được chứng kiến Ngài làm phép lạ cho con bà góa thành
Nain sống lại” (x.Lc 7,11-17), như “những đám người đông đảo kéo đến cùng Người,
đem theo những kẻ què quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc và nhiều bệnh nhân khác nữa.
Họ đặt những kẻ ấy dưới chân Người và Người chữa lành” (Mt 15,30), như đám đông
đi theo Ngài và ở với Ngài “đã ba ngày rồi mà không có gì ăn” được Ngài “chạnh
lòng thương” làm phép lạ cho bánh hoá nhiều để ai nấy được ăn no nê (x. Mc 8,1-9),
như đám đông “đang vất vả mang gánh nặng nề” được Ngài kêu gọi đến với Ngài để
được nghỉ ngơi, bồi dưỡng (x. Mt 11,28-30), và cũng những đám đông đã đi theo
Ngài, “thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ” đang “đứng trước
Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế lớn tiếng tung hô: “Chính
Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta”
trong Vương Quốc Nước Trời hằng sống (Kh 7,9-10).
Hình
ảnh đám đông đi theo Đức Giêsu trong Tin
Mừng chính là hình ảnh Giáo Hội đồng
hành: mọi người đồng hành với nhau trên đường theo Đức Giêsu. Đặc tính đồng
hành này có nền tảng trên yếu tính Hiệp Thông của Giáo Hội, yếu tính không thể
thiếu đối với một Giáo Hội được ví như
thân thể mà tất cả mọi người đều là chi thể, bởi “tất cả chúng ta đều đã
được chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả
chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất” (1Cr 12,13).
Như
thế, không ai thuộc về Giáo Hội mà bị cô
lập bởi Giáo Hội; không ai ở trong Giáo Hội mà bị Giáo Hội kỳ thị, khai trừ;
không người Kitô hữu nào phải chịu cảnh thui thủi cô độc, lầm lũi đơn côi trên
đường đi đạo, bởi Giáo Hội không chỉ là Thân Thể duy nhất, mà còn là đoàn thể
cùng nhau đi theo Đức Giêsu, cùng nhau sống chết với Đức Giêsu, cùng nhau loan
báo Tin Mừng của Đức Giêsu, cùng nhau đi vào Nước Trời và chung hưởng hạnh phúc
được chính Thiên Chúa hứa ban.
Nhưng
Giáo Hội có thực sự là Giáo Hội đồng hành? Giáo Hội có sống đòi hỏi đồng hành với
con cái? Giáo Hội có phát huy tinh thần đồng hành giữa đoàn chiên? Hay trong
Giáo Hội vẫn còn những tín hữu bị bỏ rơi, những con chiên đơn độc, những người
trẻ không được ai đồng hành?
Đây
là một vấn đề không nhỏ, khi nhiều người trẻ sau khi bỏ Giáo Hội gia nhập các
giáo phái đã thẳng thắn chia sẻ tình cảnh chơi vơi, lạc lõng của mình trước đó giữa
lòng Giáo Hội, và không ngần ngại khẳng định lý do khiến họ bỏ Giáo Hội, vì thấy mình như người xa lạ trong nhà Mẹ
Giáo Hội, như khách lạ trong gia đình Hội Thánh, như người lữ hành cô độc không
bạn đường giữa cộng đoàn dân Chúa trên hành trình đức tin.
Là
người trẻ còn non nớt, họ cần được những bậc cha anh trong Giáo Hội đồng hành với
họ, như Đức Giêsu đã đồng hành với các
môn đệ:
1.
Ngài đã đồng hành tình
nghiã:
Đồng
hành tình nghiã thầy trò, tình nghiã cha con, tình nghiã của Thiên Chúa, Đấng Cứu
độ với con người tội lỗi cần được cứu độ. Chính trong bầu khí tình nghiã này mà
các môn đệ đã được Đức Giêsu huấn luện, để lớn lên trong đời sống làm người, và
trưởng thành trong đời làm con Chúa, môn đệ.
Đức
Giêsu đã đồng hành tình nghiã khi “yêu thương những kẻ thuộc về mình và Người
yêu thương họ đến cùng” (Ga
13,1), bởi chỉ có thể tình nghiã với
ai, khi “yêu thương họ đến cùng”, vì yêu không đến cùng sẽ không được kể là
tình nghiã, như những người yêu một khoảnh khắc, yêu một thời gian, yêu một
qũang đường. Những người yêu từng phần mà không toàn phần, yêu có giới hạn mà
không vô hạn, yêu được lập trình sẵn mà không là dấn thân mạo hiểm đi vào vô cùng
này không được kể là người tình nghiã, vì “có tình có nghiã” phải được hiểu là
trái tim yêu đến cùng, dù “đường cùng phải đến” có cùng khổ, cùng cực, cùng quẫn
thế nào đi nữa.
Chính
vì không dám yêu “người mình yêu” với gánh nặng của qúa khứ, với đe dọa của hiện
tại, với rủi ro của tương lai, mà chúng ta không muốn yêu ai đến cùng như Đức
Giêsu đã yêu những kẻ thuộc về mình. Và khi không muốn yêu đến cùng, chúng ta rất
khó có thể đồng hành tình nghiã với họ.
Vì
thế, tuy là đoàn thể cùng đi trên một tuyến đường, cùng chia sẻ vất vả và hạnh
phúc của những người đồng hành, đồng hướng, nhưng nhiều người trong Giáo Hội đã
trải nghiệm những bước chân lầm lũi, đơn độc, nặng nề giữa cộng đoàn; đã sống
những xót xa, đắng đót vì bị cô lập, bỏ rơi giữa lòng Mẹ Giáo Hội, mà lý do thì
nhiều vô kể, và thành phần trẻ thường chiếm đa số.
Người
trẻ khao khát được đồng hành tình nghiã, nên khi rơi vào tình cảnh lạnh lùng,
vô cảm của cha anh đồng đạo, người trẻ sẽ thất chí, nản lòng; người trẻ ao ước
được cùng đi với những người cởi mở, thân thiện, nên chẳng may đi bên cạnh những chức sắc xét nét, nhỏ mọn, hở
ra là “lên lớp” dọa dẫm, đe nẹt, thì họ chẳng còn nhiệt tình, nhiệt huyết để đạt
mục đích ở cuối đường.
Vì
thế, khi một cộng đoàn đức tin thiếu đồng hành tình nghiã, nghiã là vắng bóng
tình yêu thương huynh đệ trên hành trình đức tin, cộng đoàn ấy sẽ mau chóng rời
rạc, chia rẽ dẫn đến tình trạng tự ý ra khỏi cộng đoàn của nhiều người, đặc biệt
người trẻ, và thực tế đã chứng minh: nhiều người trẻ bỏ đức tin công giáo vì
không tìm được “bạn đường đức tin” đồng hành tình nghĩa, nhất là trong những thử
thách cam go của đức tin, giữa sóng gió nghi nan, ngờ vực về hiện hữu của chính
mình.
2.
Ngài đã đồng hành tôn
trọng:
Đồng
hành tình nghiã thôi chưa đủ, còn phải đồng hành tôn trọng, khi trân qúy nhân
phẩm và tôn trọng quyền con người của nhau, như Đức Giêsu đã đồng hành tôn trọng
với Nhóm Mười Hai của Ngài.
Đức
Giêsu đã đồng hành tôn trọng khi tôn trọng tự do đi theo Ngài của mỗi người, bởi
có rất nhiều người đã nghe tiếng Ngài kêu gọi “Hãy theo tôi!”, nhưng theo Ngài
chẳng có bao nhiêu, như người thanh niên đã tế nhị từ chối khi lặng lẽ “buồn rầu
bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” (Mt 19,22), hay như khi Gioan Tẩy Giả giới
thiệu hai môn đệ của mình cho Đức Giêsu và muốn họ đi theo Ngài, Đức Giêsu đã đồng
hành tôn trọng tự do của các môn đệ này bằng mời các ông “Đến mà xem”. Họ đã đến
xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy” (Ga 1,39), vì Ngài không bao
giờ làm áp lực trên chọn lựa của bất cứ ai, không áp đặt, khống chế người nào
phải tin và đi theo Ngài, bởi Ngài tuyệt đối tôn trọng giá trị của mỗi người và
chỉ muốn đồng hành tôn trọng mọi người.
Đức
Giêsu đã đồng hành tôn trọng cả khi môn đệ Phêrô chối mình, mặc dù đã được cảnh
báo: “Này anh Phêrô, Thầy bảo cho anh biết, hôm nay gà chưa kịp gáy, thì đã ba
lần anh chối là không biết Thầy” (Lc 22,34), cũng như với Giuđa, Ngài đã bảo
ông: “Giuđa ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao?” (Lc 22,48), khi ông lại
gần để hôn khi Ngài bị bắt.
Trên
hành trình đức tin với cộng đoàn dân Chúa, người trẻ cũng cần được đồng hành
tôn trọng không chỉ khi người trẻ “hăng say, đạo đức”, nhưng cả lúc nguội lạnh,
khô khan, khủng hoảng, vì hơn ai hết, người trẻ rất nhậy bén với những gì là độc
tài, cưỡng bức, khống chế, tước đọat tự do, khinh mạn, phỉ báng, nên khi vấp phải
chướng ngại trên hành trình tự do của đức tin, người trẻ sẽ rơi vào bất mãn và
tìm đường thoát thân bằng rút lui, bỏ cuộc.
Thực
vậy, với tâm hồn lương thiện, chúng ta sẽ phải khiêm tốn nhìn nhận những thiếu
sót đối với người trẻ trong Giáo Hội khi chưa đồng hành với lòng tôn trọng, để
không ít người trẻ cảm thấy bị coi thường, bị xúc phạm, bị tổn thương cách này
cách khác, từ đó con đường đi tìm các giáo phái có cơ hội mở ra.
3.
Ngài đã đồng hành “cá nhân”:
Đồng
hành cá nhân là đồng hành quan tâm đến từng người, như Đức Giêsu đã gần gũi với
từng môn đệ, biết rõ từng người, cảm thông với từng người, và có phương án
riêng để hướng dẫn, nâng đỡ, vực dậy từng người.
Thực
vậy, cá nhân không bị quên trong “đám đông đi theo Chúa”, mỗi người không bị biến
thành con số trong cộng đoàn Giáo Hội, nhưng cá nhân được chăm sóc, mỗi người
có một sứ vụ, như mỗi chi thể có công tác, cơ năng riêng trong thân thể. Về
chân lý này, không ai có thể cắt nghiã khúc chiết, phong phú hơn thánh Phaolô: Thiên
Chúa đã đặt mỗi bộ phận vào một chỗ trong thân thể như ý Người muốn. Giả như tất
cả chỉ là một thứ bộ phận, thì làm sao thành thân thể được? Như thế, bộ phận
tuy nhiều mà thân thể chỉ có một. Vậy mắt không thể bảo tay: “Tao không cần đến
mày”; đầu cũng không thể bảo hai chân: “Tao không cần chúng mày” (1 Cr
12,18-21).
Do
đó, khi đồng hành cá nhân với các môn đệ, Đức Giêsu muốn nói lên địa vị và vai
trò quan trọng của mỗi người trong Giáo Hội của Ngài, một Giáo Hội được ví như
Thân Thể, mà tất cả các chi thể, bộ phận đều cần thiêt và liên đời với nhau,
nên khi bỏ quên việc đồng hành cá nhân với người trẻ, chúng ta đã vô tình tỏ ra
không cần họ, không nhìn nhận chỗ đứng và ơn gọi, sứ vụ của từng người trẻ
trong Giáo Hội, để họ mang mặc cảm bị hạ giá, bị bỏ ra bên lề, bị đẩy ra ngoài
sinh hoạt của Giáo Hội. Chúng ta nên chân thành tự vấn: có bao nhiêu người trẻ
trong cộng đoàn đã được chúng ta tín nhiệm, giao trọng trách? Có bao nhiêu
thanh thiếu niên trong giáo xứ đã được người có quyền quản trị chia sẻ công việc
với niềm tin tưởng và tôn trọng? Có bao nhiêu người trẻ đã chán nản bỏ cuộc,
không muốn cộng tác với chúng ta sau một thời gian, vì thái độ “hống hách, coi
thường, thiếu cởi mở, kể cả vắt chanh bỏ vỏ” của chúng ta? Và có bao nhiêu người
trẻ đã bỏ Giáo Hội đi theo các giáo phái vì không được Giáo Hội quan tâm đồng
hành “cá nhân” với họ?
Thực
ra, không dễ để thực hiện lý tưởng đồng hành với từng người, như Đức Giêsu đã “biết
từng con chiên của Ngài” và chiên nào cũng biết Ngài và nghe tiếng Ngài (x. Ga
10,3-5), vì chúng ta không có thời giờ, và khả năng có giới hạn, nhưng cản trở
đáng buồn chính là tính ích kỷ và ganh tị của chính chúng ta là những người có
trách nhiệm đồng hành với người trẻ. Qua tâm sự của nhiều người trẻ nạn nhân,
chúng ta phải nhận một sự thật phũ phàng là không ít những người lớn đi trước
có trách nhiệm xây dựng đức tin của người trẻ lại ghen tương, tranh giành, đấu
đá với người trẻ khi thấy họ nổi bật hơn mình về kiến thức, khả năng. Đây là
ung nhọt phải được cắt đi sớm bao nhiêu có thể, vì ảnh hưởng phá hoại rất tồi tệ
của nó.
4.
Ngài đã đồng hành giáo
dục khai phóng:
Các
môn đệ đi theo Đức Giêsu không phải là những người hoàn hảo, nhưng tất cả đều
là những con người bình thường, với những khuyết điểm, tính hư tật xấu, và lòng
dạ còn nhiều điều phải sửa chữa, thay đổi.
Tin
Mừng đã ghi lại những màn tìm kiếm ngôi thứ, địa vị trong Vương Quốc tương lai
của Đức Giêsu (x. Mc 10,35-40), những cảnh các môn đệ nóng giận xin Đức Giêsu sai
lửa từ trời xuống thiêu rụi làng này, tỉnh kia chỉ vì không ân cần tiếp đón các
ông (x. Lc 9,51-55), những thái độ thiếu nhân bản khi xua đuổi trẻ em đang náo nức muốn đến gần Đức Giêsu để đuợc
Ngài âu yếm chúc lành (x. Mt 19,13-15), những câu nói thiếu tế nhị làm tổn thương trước người đàn bà ngọai đạo kiên
trì năn nỉ Đức Giêsu chữa lành con gái bà bị quỷ ám (x. Mt 15,23), và còn vô số
những thiếu sót, yếu đuối nơi các ông, mà điển hình là Giuđa đã bán Thầy, Phêrô
đã chối Chúa, và hầu hết các môn đệ đã trốn chạy bỏ rơi Đức Giêsu những ngày
tang thương, sầu thảm nhất trên đường Thánh Giá.
Tuy
vậy, Đức Giêsu vẫn thương yêu những người thuộc về Ngài và thương yêu họ đến
cùng, bằng đồng hành giáo dục khai phóng họ.
Ngài
nhẹ nhàng chỉ bảo các ông để các ông nhìn ra vấn đề hơn; Ngài ân cần khuyên răn
các ông để các ông tử tế hơn với mọi người; Ngài khéo léo uốn nắn các ông để
các ông nhận ra điều ngay lẽ phải; Ngài kiên nhẫn dậy dỗ các ông để các ông đuợc biến đổi, hầu đón nhận Thánh Ý Thiên
Chúa trong cuộc sống; nhất là Ngài khiêm tốn chịu đựng các ông khi các ông sai
trái, mà không nóng giận, hằn học, trừng phạt, lên án, tẩy chay, khai trừ.
Cứ
nhìn thái độ của Đức Giêsu đối với Phêrô khi ông vừa chối Ngài thì biết trái
tim đồng hành của Ngài lớn thế nào: Ngay lúc Phêrô còn đang chối: không biết Đức
Giêsu là ai, thì Chúa quay lại nhìn ông, ông sực nhớ lời Chúa đã bảo ông: “Hôm
nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần. Và ông ra ngoài khóc lóc thảm
thiết” (Lc 22,61-62).
Trước
sai phạm nghiêm trọng của môn đệ Phêrô, Đức Giêsu đã không hề phản ứng bạo lực,
trái lại vẫn yêu thương đến cùng, và bằng ánh mắt buồn nhưng âu yếm cảm thông,
Ngài đã nâng đỡ Phêrô, giúp Phêrô thoát khỏi cơn sóng tuyệt vọng, và dậy bảo
ông thống hối trở về. Tính cách giáo dục khai phóng của Đức Giêsu khi đồng hành
với các môn đệ được đặt trên tình yêu vô cùng và đến cùng. Nhờ tình yêu mãnh liệt
và bền vững này, Ngài luôn hy vọng vào
ơn đổi mới nơi người môn đệ yếu đuối, tội lụy, mà không hề xúc phạm, hạ thấp
giá trị của người thuộc về mình.
Như
thế vẫn chưa đủ, Đức Giêsu, sau khi sống lại còn làm chứng cho Phêrô và các môn
đệ biết: Ngài không mượn cớ, chờ dịp để trách móc, trừng phạt, sa thải,
nhưng một lần nữa giáo dục các ông tinh
thần khai phóng có trách nhiệm khi nhấn mạnh với các ông tiêu chuẩn để trở
nên người môn đệ xứng đáng, tiêu chuẩn để trở thành người lãnh đạo tốt, tiêu
chuẩn để trao trọng trách quản trị đoàn chiên của Ngài chính là Tình Yêu, khi
nói với Phêrô: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy”, sau khi hỏi ông ba lần: “Con có
yêu mến Thầy không?” (Ga 21,17).
Nhìn
lại những người trẻ bỏ Giáo Hội ra đi, chúng ta có chạnh lòng khi nghĩ đến những
lần người trẻ sai lỗi đã bị người có trách nhiệm trong Giáo Hội nặng lời quở
trách, nạt nộ, lên án? Chúng ta có bận tâm đặt mình vào chỗ của người trẻ để hiểu
phần nào nỗi buồn “thất vọng với Giáo Hội”
của họ, vì những “bất ngờ, không ngờ” có sức làm sụp đổ từ phiá những người có
quyền quản trị? Chúng ta có giật mình băn khoăn khi người trẻ đột nhiên không
còn nhiệt huyết, không còn lửa quảng đại phục vụ Giáo Hội ?
Và
câu trả lời đã không được viết thành câu, nói thành tiếng, nhưng vội vã biến thành hành động bỏ nhà đi tìm một mái ấm
khác rất xa, rất lạ với nhà mẹ Giáo Hội.
Qủa
thực, các bạn trẻ đã bỏ nhà Giáo Hội đi theo các giáo phái đều chung một tâm sự,
đó là “buồn vì đã không được Giáo Hội
quan tâm đồng hành”. Rất có thể các bạn ấy đã chủ quan, vì Giáo Hội không bỏ
bê công việc này, bằng chứng là các đấng bản quyền luôn quan tâm đến sứ vụ đồng
hành với giới trẻ, và rất nhiều chương trình được thực hiện để phục vụ giới trẻ
trên hành trình đức tin. Nhưng vấn đề được các em đặt ra ở đây chính là phương
thức đồng hành, bởi đồng hành với đám đông khác đồng hành cá nhân với từng người;
đồng hành kiểu “tổ chức sự kiện” khác đồng
hành liên lỷ kiểu “mưa dầm thấm lâu”; đồng hành kiểu công bố sắc lệnh, tuyên
ngôn nẩy lửa khác đồng hành đằm thắm, nhẹ nhàng; đồng hành kiểu huyên náo, sôi
nổi khác đồng hành kín đáo, lặng lẽ, thâm trầm; đồng hành kiểu đại trà, hoành
tráng với khẩu hiệu, biểu ngữ khác đồng hành từng bước âm thầm, từng khúc mắc
được cởi, từng vấn nạn được giải thích, từng nhu cầu được đáp ứng, từng thao thức,
khắc khoải được khai mở thăng hoa.
Vâng,
người trẻ không luôn dễ tính và đơn giản như người lớn thường lầm tưởng khi
đánh giá. Trái lại, người trẻ nghĩ khác người lớn, người trẻ lý giải khác người
già, người trẻ không luôn chọn lựa như ước mơ của cha anh, nên không đồng hành
với người trẻ như người trẻ khao khát, chờ đợi, chúng ta sẽ mất người trẻ;
không bước cùng nhịp với người trẻ trên hành trình đức tin, người trẻ sẽ không
đi với chúng ta; không gắn bó, thân thiết đồng hành với người trẻ, người trẻ sẽ
không hiểu chúng ta và kết thúc bằng
chia tay từ biệt.
Chính
trong tình trạng “không cảm thấy được quan tâm đồng hành” trong Giáo Hội, người
trẻ sẽ đi tìm sự quan tâm đồng hành ở nơi khác. Điều đáng nói là “những nơi
khác” ấy luôn biết nắm thời cơ và thực hiện những kỹ năng đồng hành rất ăn
khách, tạo ấn tượng sâu đậm nơi người trẻ đang có vấn đề đức tin. Kỹ năng đồng
hành thường được “những nơi khác ấy” điều nghiên kỹ lưỡng và chi tiết lập
trình, khởi đi từ những nhu cầu rất nhỏ và rất bình thường của đời thường như nhu
cầu an sinh, nhu cầu học vấn, nhu cầu được lắng nghe… để từ đó tiến xa dần đến
nhu cầu tâm linh, mà đích điểm là đức tin.
Thế
nên không lạ gì khi nhiều người trẻ công giáo không tìm được chỗ đứng trong
Giáo Hội, hoặc không cảm thấy được Giáo Hội quan tâm đồng hành đã dễ dàng gia
nhập các giáo phái khi được mời gọi, vì ở đây, họ được trân trọng, ở đây họ cảm
thấy an tâm vì được quan tâm, ở đây họ cảm thấy bình an, vì được ân cần nâng đỡ,
thân thiện đồng hành, ở đây họ cảm thấy ấm áp như con cái, anh chị em trong
nhà, vì khoảng cách giữa người với người không xa, tương quan người trên - kẻ
dưới không hình thức, nặng nề, nhất là ở đây, những trăn trở, thắc mắc liên
quan đến niềm tin, những vấn nạn đức tin từ lâu làm bận trí, nặng lòng đều được
giải toả, tháo gỡ bằng cách thay thế đức
tin công giáo được xem là “lạc hậu, cũ kỹ, nặng nề”, bằng một “đức tin mới lạ, kỳ
diệu, nhẹ tênh”.
Jorathe
Nắng Tím