CHẾT CHO NGƯỜI MÌNH YÊU
Như
nhiều người, tôi đã nhiều lần tự hỏi: Tại sao Thiên Chúa phải chết? Bởi nếu Đức
Giêsu là Thiên Chúa thì Ngài dư quyền năng, đủ quyền phép để không phải chịu đóng
đinh, mà vẫn cứu chuộc được nhân loại. Tôi đã thắc mắc như những người Do Thái năm xưa đã thắc mắc, trong số đó
có các môn đệ của Đức Giêsu.
Qủa
thực, câu hỏi của bao người từ hơn hai ngàn năm nay, cũng là vấn nạn của người
trẻ hôm nay: Cuộc thương khó và tử nạn của Đức Giêsu trên Thánh Giá có thực sự
cần thiết không?
Vì cho là không
cần thiết, nên tông đồ Phêrô mới vội vàng lên tiếng can ngăn:
“Xin
Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (Mt 16,22), khi Đức Giêsu
loan báo sẽ lên Giêrusalem, ở đó “phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các
thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt
16,21); vì cho là cực kỳ phi lý một Thiên Chúa phải chết bởi tay con người, nên
nhiều môn đệ đã ngã lòng, trốn chạy, bỏ rơi Thầy; vì không thể tin nổi một Thiên
Chúa mà chịu treo trần truồng trên thập giá, mà không thể tự cứu mình, mà đám đông
mới bực mình hỏi đểu: “Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào!”
(Mt 27,40); và cũng vì không thể lý giải sự kiện Thiên Chúa chết, mà nhiều người
của thời đại thực dụng đã cho rằng Đức Giêsu đã tự nguyện chọn cái chết như một
cách thức tự tử, khi biết mình hết thời, bị hoàn toàn bế tắc, rơi vào hoàn cảnh
“tiến thoái lưỡng nan”, khi tứ phía đối phương bao vây, xiết chặt, như nhà lãnh
tụ cách mạng bị dồn vào đường cùng, tướng quân thất thủ trên trận địa, nên thay
vì đầu hàng đã chọn phương án tự sát.
Những
ý nghĩ về cuộc thương khó và cái chết của Đức Giêsu trên có thể không sai, nếu Đức
Giêsu chỉ là con người, mà không phải Thiên Chúa. Nói cách khác, trên bình diện
nhân loại, người ta có thể suy diễn như vậy, và Đức Giêsu cùng lắm sẽ được tôn
vinh là một người khí phách, can trường đi đến cùng đường lối, chủ trương, lý
thuyết của mình được chứng minh bằng cái chết tự nguyện. Nhưng với đức tin và
giáo huấn của Giáo Hội, chúng ta nhìn nhận liền
sau cái chết “nhân tính” của Đức Giêsu là sự phục sinh “thiên tính” của Ngài, vì Ngài là Thiên Chúa làm người.
Ngài là Tất Cả: là Thiên Chúa đã đau khổ, bị bỏ rơi, chịu đóng đinh, rồi sống lại.
Sự sống lại đã cho cuộc sống trần gian của Ngài một ý nghiã và chiếu sáng sự sống
nhân loại ấy bằng ánh sáng của Tình Yêu Cứu Độ.
1.
Hiến
mạng sống vì người mình yêu:
Nghiã
cử này không lạ với con người, như người mẹ sẵn sàng chết thay con, vợ hy sinh
chết cho chồng, người chiến sĩ chết vì đất nước, quê hương, đồng bào. Nhưng hành
động can trường bỏ mình, tự nguyện mất mình, xoá mình ấy cần một lý do, một động
lực, một mục đích, như sống thì phải có
“lẽ sống”, chết cũng cần một “lẽ chết”, nếu không cuộc sống sẽ vô nghiã, và cái
chết cũng vô lý, vô vị.
“Lẽ
chết” của những cái chết tự nguyện chính là tình yêu dành cho người mình yêu,
như mẹ chết thay con vì yêu con, vợ chết cho chồng vì yêu chồng, tình nhân chết
cho nhau vì yêu nhau, người lính chết ngoài mặt trận vì yêu quê hương, đồng bào.
Không tình yêu, không ai dại dột mất mạng, toi mạng, bởi không ai điên khùng, vô
duyên đến độ chết cho người mình không quen biết, không thân thiết, không yêu
thương.
Và
Đức Giêsu đã hiến mạng sống mình vì tình yêu, như những người yêu nhau đã chết
cho nhau, vì nhau, khi nói với các môn đệ trước khi lên Giêrusalem để chịu bắt
bớ, hành hình: “Không có tình yêu nào
cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga
15,13), bởi ngoài cái chết, không còn cách nào để bầy tỏ tình yêu vô cùng và đến cùng của Thiên Chúa dành cho con người, không
lời nào, việc làm nào đủ sức thuyết phục con người tin ở tình yêu bao la, vô tận
của Thiên Chúa đối với mình.
Như
thế “lẽ chết” của Đức Giêsu chính là yêu con người, vì tình yêu Thiên Chúa mới cứu chuộc, chứ không phải đau khổ đã cứu
chuộc, bởi đau khổ mà thiếu tình yêu, đau khổ không vì yêu thương, thì đau
khố ấy chỉ làm con người bất hạnh nhiều hơn, nặng hơn gánh sầu, và tăng thêm khốn
nạn cho nhân loại, mà không mang một giá trị cứu rỗi nào.
2.
Hiến
mạng sống mình vì sự sống của người mình yêu:
Không
ai chết cho người không cần sống, như người mẹ chỉ chết cho con, khi bà biết cái
chết của bà sẽ cho con bà được sống, và cái chết tự nguyện ấy được gọi là cái chết
thế mạng. Cũng như người vợ trong tiểu thuyết “Anh phải sống” của nhà văn Khái Hưng thuộc nhóm Tự Lực Văn Đoàn
đã nói lên tình yêu hy sinh vĩ đại của chị Lạc, vợ anh phó Thức khi lẳng lặng
buông tay khỏi vai chồng, chấp nhận bị cuốn trôi theo giòng nước lũ, “chìm xuống
đáy sông, cho chồng đủ sức bơi vào bờ”, để chồng được sống, khi thấy chồng không
còn đủ sức xốc nổi mình nữa.
Đức
Giêsu cũng chết vì sự sống của con người, bởi cứ theo lẽ thường, thì con người
phải chết, nghiã là sau khi nguyên tổ phạm tội, con người mất quyền làm con Thiên
Chúa. Không còn là con, nên mất quyền thừa kế, không được dự phần hạnh phúc trong
nhà Cha. Đó là lý do con người không có sự sống siêu nhiên trong Thiên Chúa, không
có sự sống vĩnh cửu trong nhà Cha trên trời, không có đời sau vĩnh hằng trong
vinh quang của Thiên Chúa sau khi lìa cõi đời tạm bợ, ngắn ngủi trên trần gian.
Vì
thế, nếu không có cái chết thế mạng
của Con Thiên Chúa, con người không thể hoà giải với Thiên Chúa, Đấng con người
đã xúc phạm, khước từ; không có cái chết chuộc
mạng của Đức Giêsu, nhân loại không thể nối lại được ân tình với Thiên Chúa;
không có tình yêu hiến mạng của Ngôi Lời nhập thể, con người không được sống sự
sống đời đời của Thiên Chúa, như Tin Mừng Gioan đã ghi lại lời Đức Giêsu: “Tôi
là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên”, “để cho chiên được sống và sống dồi dào”
(Ga 10,10-11), bởi “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như
thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian, để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (1 Ga 4,9).
Cũng
qua cái chết của Đức Giêsu, chúng ta khám phá bản chất đích thực của tội. Tội
không chỉ là những vi phạm, làm tổn thương ở mức độ bình thường, nhưng tội giết chết Thiên Chúa trong tâm hồn người có tội.
Do đó, tội trở thành vấn đề sống chết đối
với con người, bởi khi tội lỗi thống trị, con người không có sự sống của
Thiên Chúa, khi tội lỗi chiếm cứ tâm hồn, Thiên Chúa phải lánh mặt và con người
bị giam cầm trong bóng tối tử thần. Đó chính là lý do, để cứu con người có tội
khỏi chết, Đức Giêsu đã phải chết để thế mạng, hầu con người tìm lại ánh sáng sự
sống.
3.
Hiến
mạng sống mình vì hạnh phúc của người mình yêu:
Hạnh
phúc lớn nhất của con người là biết mình được Thiên Chúa yêu thương, bởi “được Thiên Chúa yêu thương”, con người
biết mình sẽ không lo sợ gì, không phải thiếu thốn chi, vì Thiên Chúa là người
cha toàn năng, nhân hậu và quan phòng, không để con cái mình phải đói rách, cơ hàn
(x. Mt 6,25-34).
Nhưng
để nhận ra tình cha của Thiên Chúa luôn quan tâm lo lắng cho hạnh phúc của con
cái, con người chỉ có thể cảm nghiệm tình yêu ấy khi chiêm ngắm cái chết của Đức
Giêsu. Chính nhờ cái chết “bất hạnh” của Ngài, mà con người được trả lại hạnh
phúc đã mất do tội lỗi; chính qua cái chết “tang thương, bẽ bàng” của Ngài, mà
con người tìm lại được thiên đàng đã đóng cửa.
Trong
cái chết và phục sinh của Đức Giêsu, con người không còn lo sợ sẽ phải chết đời
đời là bất hạnh lớn nhất, bởi chỉ hai chữ đời đời thôi cũng đủ làm con người sợ
hãi, do khao khát bất tử tiềm tàng trong bản tính con người, bởi con người được
sinh ra từ cung lòng Thiên Chúa là Đấng hằng sống, vô thủy vô chung.
Không
những cái chết của Đức Giêsu đã chuộc lại sự sống đã mất, mà sự phục sinh của
Ngài còn bảo đảm sự sống mới bất diệt của con người. Đó là hạnh phúc lớn mà con
người nhận được từ cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu.
Ngoài
hạnh phúc được sống sự sống đời đời của Thiên Chúa, vì được Đức Giêsu xóa hết tội và trả lại quyền làm nghiã tử của
Thiên Chúa, con người còn nhận ơn Bình An của Đức Giêsu, mà chỉ sau khi sống lại
Đức Giêsu mới chính thức ban cho các môn đệ của Ngài, bởi đó là ơn Bình An của
Thiên Chúa đã chết và sống lại, ơn Bình An mà thế gian không ban được. Đó là Bình
An cho tâm hồn được hoàn toàn giải phóng khỏi ách nô lệ của tội lỗi, khi được Máu
Thiên Chúa rửa sạch mọi tội khiên, lỗi lầm.
Nhận
ơn bình an từ Đức Giêsu chịu đóng đinh đã sống lại, chúng ta sẽ không xao xuyến
trước những thử thách của cuộc đời, không sầu tủi vì nghèo hèn, chán nản vì bị
khinh chê, nao núng, ngã lòng vì bị truy lùng, bách hại, nhưng bình an trong mọi
hoàn cảnh, bình an trong mọi thử thách, và vui mừng hớn hở vì phần thưởng Thiên
Chúa dành cho trên trời thật lớn lao (x. Mt 5,12).
Qủa
thực, Yêu là mong ước và nỗ lực đem lại hạnh phúc cho người mình yêu, và đối
nghịch với Yêu là Thù khi chỉ muốn và làm mọi cách để kẻ thù phải khổ sở, bất hạnh.
Thiên
Chúa yêu thương nên tìm mọi cách cho con người hạnh phúc với Ngài, ngay cả khi
con người tự ý khước từ hạnh phúc, tự mình cắt đứt, cách ly với nguồn hạnh phúc
là Thiên Chúa, tự nguyện rời xa hạnh phúc địa đàng như ông bà nguyên tổ đã nghe
Rắn Độc ăn qủa Thiên Chúa cấm.
4.
Hiến
mạng sống để làm theo ý Chúa Cha:
Đức
Giêsu không tự ý mình chọn cái chết, như nhiều người quy tội tự tử, quyên sinh
cho Ngài, nhưng “tự nguyện chịu khổ hình và chịu chết”, vì tự nguyện vâng lời
Thiên Chúa Cha, Đấng sai Ngai xuống thế gian với một sứ vụ là thế mạng cho con
người, chuộc mạng cho loài nguời, để mọi người được sống đời đời.
Hình
ảnh đổ mồ hôi máu trong vườn Cây Dầu trước giờ bị bắt, khi tha thiết cầu nguyện:
“Lậy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này” (Mt 26,39) đã làm
chứng Đức Giêsu ý thức “lên Giêrusalem chịu khổ hình và chịu đóng đinh” là một
chén rất đắng đót, nhưng vì yêu mến và vâng lời Chúa Cha, Ngài đã thân thưa liền
sau đó: “Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39), bởi vì giây
phút này, vì chén đắng này mà Ngài đến trong thế gian.
Như
thế, cuộc khổ hình và đóng đinh mà Đức Giêsu, Con Thiên Chúa phải chịu đã nằm
trong kế họach yêu thương con người của Thiên Chúa Cha, đã ở trong chương trình
chuộc lại con người đã hư mất vì tội lỗi của Chúa Cha, nên Đức Giêsu đã không
chọn cái chết, vì công cuộc truyền giáo của Ngài bị bế tắc, thất bại, cũng không
bất đắc dĩ chọn cái chết như một giải pháp của bại tướng để bảo toàn uy tín,
danh dự, nhưng là sứ vụ được trao phó: thực hiện thánh ý “chuộc lại con người” của
Thiên Chúa Cha đã có từ lúc nguyên tổ loài người sa ngã, phản bội, khi tự đánh
mất quyền làm con và sự sống đời đời Thiên Chúa dành cho họ.
Tóm
lại, cái chết của Đức Giêsu là chọn lựa của Thiên Chúa như cách thức tốt nhất để
chuộc tội con người, trả cho con người ơn làm con và sự sống đời đời. Sự chết ấy
còn là biểu chứng hùng hồn nói cho con người biết Thiên Chúa yêu thương họ “vô
cùng và đến cùng”, đến hy sinh chính mạng sống.
Đây
là sự thật của mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa dành cho con người, mà chúng ta không
thể chối cãi, nếu chúng ta khiêm tốn chiêm ngưỡng với đôi mắt đức tin và dưới ánh
sáng của Tin Mừng, ở đó chúng ta sẽ được Chúa Thánh Thần dậy bảo để biết: Nếu
không có mầu nhiệm Nhập Thể của Đức Giêsu, không ai được cứu rỗi, tức không được
hưởng hạnh phúc trong Thiên Chúa, với Thiên Chúa, vì ách thống trị của tội lỗi,
tử thần; nếu Đức Giêsu không chịu khổ hình và đóng đinh chết trên Thánh Giá, không
người nào được sống lại và lên trời, vì giữa loài người và Thiên Chúa không còn
tình nghiã, bởi không có Đấng vừa là Thiên Chúa vừa là Con Người làm trung gian
giao hoà; nếu không có Đức Giêsu chịu đổ máu trên Thánh Giá, tội lỗi loài người
và mỗi người mãi mãi ngăn cách Thiên Chúa với con người, và tình nghiã Cha Con
giữa Thiên Chúa và con người không bao giờ được phục hồi, chuộc lại; nếu Đức Giêsu
không chết như con người thì con người chẳng bao giờ bình an vì tương lai không
lối thoát sau khi lìa bỏ cõi đời. Nhưng qua cái chết và sống lại từ cõi chết, Đức
Giêsu đã đem đến cho con người, cho từng người ơn Bình An viên mãn, ơn Bình An
trước mọi thách đố, kể cả sự chết, vì mọi người biết mình sẽ được sống lại với
Đức Giêsu và như Đức Giêsu trong vinh quang của Ngài, với điều kiện đón nhận ơn
cứu chuộc từ sự chết và phục sinh của Ngài.
Vâng,
Đức Giêsu đã chấp nhận chết trên Thánh Giá, và người Kitô hữu “rao giảng một Đấng
Kitô chịu đóng đinh, điều mà người Do Thái cho là ô nhục, không thể chấp nhận,
và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù
là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của
Thiên Chúa” (1 Cr 2,23-24).
Cũng
vậy, không ít người đương thời với chúng ta cho là “tào lao, chạm mạch, mát giây,
không cần thiết” sự chết của Đức Giêsu. Nhưng với chúng ta, đó là tình yêu vô cùng
cao qúy, lớn lao của Thiên Chúa khi “chết cho con người để con người khỏi phải
chết, nhưng được sống”; đó là tình thiên thu, bền vững của một Thiên Chúa nhân
từ và trung tín đã không chịu bỏ rơi con mình, dù con ngược ngạo, bội phản, bất
xứng, nhưng cứu cho kỳ được, và tìm mọi cách chuộc lại những gì đã hư mất.
Thiên
Chúa cũng nói với chúng ta: Ngài là Hy Vọng của mỗi người, nguồn hy vọng không
bao giờ vơi cạn, niềm hy vọng không bao giờ làm chúng ta thất vọng, và cũng nói
với chúng ta từ mầu nhiệm Tử Nạn, từ trên cao Thánh Giá lòng thương xót vô biên,
vô cùng của Ngài, đồng thời dậy chúng ta học xót thương anh em với Ngài, bởi chỉ
lòng xót thương mới sinh ơn Cứu Rỗi, chỉ lòng xót thương mới đem lại ơn Bình An,
chỉ lòng xót thương mới nẩy sinh niềm Hy Vọng được sống lại và sống đời đời.
Với
Đức Giêsu chịu chết trên Thánh Giá, chúng ta nhận ra sự cao cả của Thiên Chúa
khi sai Con Một của mình xuống thế gian và chết để cứu chuộc muôn người, đồng
thời nhận ra sự cao cả của con người khi hiến mạng sống để làm chứng Công Lý và
Lòng Thương Xót của Thiên Chúa giữa anh em.
Và
với Đức Giêsu chịu đóng đinh, chúng ta học yêu đến hy sinh mạng sống cho người
mình yêu. “Mạng sống” đây chính là những chịu đựng anh hùng trước những trái ý,
thiệt thòi, bất công người khác gây ra; “mạng sống” được dâng hiến đây chính là
những tha thứ qủang đại khi bị xúc phạm, làm tổn thương; “mạng sống” bị mất đi đây
chính là những việc làm âm thầm, kín đáo, yên ắng, vô tư, vô vị lợi vì hạnh phúc
của mọi người, bởi trên Thánh Giá, khi tự nguyện chết cho chúng ta được sống, Đức
Giêsu đã khiêm nhường, hiền lành, vâng phục, chịu đựng, bao dung, thương xót và
bình an để luôn hướng về Thiên Chúa như con cái và hướng đến đồng loại như anh em
là “mẫu người” mà Thiên Chúa đã muốn khi tạo dựng nhân loại.
Qủa
thực, không có Đức Giêsu, nếu không có Thánh Giá; không có ơn Cứu Độ, nếu Đức
Giêsu đã không làm người và chịu đóng đinh; không có hạnh phúc được sống đời đời,
nếu Đức Giêsu đã không sống lại từ cõi chết. Vì thế, đã là người Kitô hữu, chúng
ta phải gắn bó với sự chết vì yêu thương của Đức Giêsu, bởi sự chết của Thiên
Chúa làm người đã chuộc lại cho Thiên Chúa sự sống Thiên Chúa mà con người đã làm
mất, để “nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài”, Thiên Chúa được tôn vinh và chúng
ta được sống hạnh phúc trong vinh quang của Ngài.
Jorathe
Nắng Tím