Tìm kiếm Blog này

Thứ Bảy, 23 tháng 3, 2019

Những Người Ở Xa Phía Sau

https://www.youtube.com/watch?v=HFOT0DL3cmQ
Sinh hoạt xã hội cũng như sinh hoạt riêng của mỗi cá nhân giống nhau ở chỗ có nhiều mặt, nhiều phía: phía trước - phía sau, mặt chìm - mặt nổi. Có người chẳng nổi nang xuất hiện bao giờ, nhưng lại nắm trọng trách quyết định hoặc ảnh hưởng lớn trong đường lối, kế hoạch chung của cộng đồng; có người suốt đời chìm sâu, thầm lặng nhưng là cố vấn khôn ngoan luôn được bạn bè hội ý; có người sinh ra để “đứng mũi chịu sào” phía trước, nhưng cũng có người chỉ ở phía sau kín đáo chuẩn bị, âm thầm sắp xếp, lặng lẽ thực hiện. Cách chung thì người ta chỉ biết những bộ mặt nổi, ở phía trước, còn những hình bóng chìm, phía sau thường mãi là bóng nhạt, hình mờ luôn rơi vào “không tên, không biết”.
Chung quanh cuộc đời Đức Kitô có rất nhiều khuôn mặt chìm nổi, xa gần, phía trước phía sau. Những nhân vật nổi được nhắc đến nhiều như Phêrô, Anrê, Giacôbê, Gioan, Maria Mađalêna, Đức Maria, mẹ Ngài, bên cạnh đám đông thầm lặng, phía sau gồm những người đi theo nghe Ngài giảng, những phụ nữ đạo đức, những đại gia rộng rãi, quảng đại, những thanh niên, thiếu nhi, những người đau bệnh, những binh lính trong quân đội Rôma, những người Do Thái trong hàng ngũ Pharisiêu, trong tổ chức ái quốc Zêlốt… Đặc biệt trong những ngày khổ nạn, có nhiều bộ mặt rất nổi như môn đệ Giuđa, tổng trấn Philatô, thầy thượng phẩm Caipha, ông Simon người làng Kyrênê và nhiều người nổi khác… Ở giai đoạn lo liệu “hậu sự” cho Đức Kitô, xuất hiện hai nhân vật, tuy được nêu tên nhưng thuộc thành phần những người “giữ mặt chìm, ở phía sau”. Nhân thân của hai ông đặc biệt và có những đóng góp đặc biệt vào cuộc đời Đức Kitô. Đó là các ông Nicôđêmô và Giuse người thành Arimathê.
Ông Nicôđêmô “thuộc phái Pharisiêu và là một thân hào nhân sĩ Do Thái” (Ga 3,1). Pharisiêu là nhóm trí thức, thông luật, có uy tín trong dân và chủ trương tuân giữ nhiệm nhặt lề luật Môsê. Nhiều người trong nhóm đã bị Đức Kitô nặng lời khiển trách vì cung cách trịch thượng, kiêu căng, giả hình, thiếu bác ái, từ tâm (Mt 23). Nhóm này rất căm giận Đức Kitô và tích cực trong việc thực hiện âm mưu giết Ngài. Tuy thuộc phe đối lập chống Đức Kitô, nhưng Nicôđêmô vẫn thỉnh thoảng tìm gặp Đức Kitô ban đêm để trao đổi, đàm đạo (Ga 3,2). Có lần vì bênh vực Đức Kitô giữa buổi họp, ông đã bị các bạn Pharisiêu kịch liệt phản đối, đe doạ (Ga 7,50-52). Buổi chiều hạ xác Đức Kitô xuống khỏi Thánh Giá, “ông Nicôđimô cũng tới, mang theo độ một trăm cân mộc dược và trộn với trầm hương... rồi liệm xác Đức Kitô trong khăn như tục lệ của người Do Thái” (Ga 19,39-40).
Còn “ông Giuse là một nhân viên trong Hội Đồng Kỳ Mục của người Do Thái”. Hội Đồng Kỳ Mục là cơ quan điều hành mọi sinh hoạt đạo đời của người Do
Thái ở Giêrusalem. “Ông là người ngay thẳng, công chính. Ông không tán thành quyết định và hành động của các thành viên khác trong Hội Đồng” (Lc 23,50-51). Ông là môn đệ Đức Kitô, nhưng là môn đệ bí mật, kín đáo, ẩn danh, không muốn cho ai biết. Ông theo Đức Kitô nhưng theo ở phía sau, mặt chìm, trong bóng tối. “Ông đã đến xin tổng trấn Philatô cho tháo xác Đức Kitô xuống” (Ga 19,38) và chôn cất Ngài trong phần mộ còn mới của ông (Mt 27,59).
Hai ông thuộc thành phần kính trọng, ủng hộ, giúp đỡ Đức Kitô nhưng đứng phía sau và ở trong bóng tối. Hai ông đại diện cho số không nhỏ những người theo Đức Kitô ở đàng xa, không ra mặt, không mở lời, không gia nhập Giáo Hội, cũng không nhận mình là người có đạo. Tâm hồn hai ông và những người bí mật theo Chúa có những nét đẹp của lương tâm trong sáng, công chính, lương thiện và nét dễ thương của cuộc sống từ tâm, bác ái.

1.   Các ông có một lương tâm trong sáng, nên thấy rõ sự thật và con người thật của Đức Kitô. Sự thật và con người thật của Đức Kitô vào thời điểm đó đã bị phủ nhận, bóp méo, thay hình đổi dạng bởi Hội Đồng Kỳ Mục và nhóm Biệt Phái mà các ông là thành viên có thế giá. Đức Kitô đã bị chụp mũ, vu oan trắng trợn bởi các đồng nghiệp và các ông bị đặt trước tình trạng giằng co giữa sự thật không được tôn trọng, con người thật không được nhận diện đúng đắn và áp lực, lợi ích của phe nhóm. Các ông biết, người ta đã ngụy tạo, cắt xén, tô vẽ con người Giêsu thành một tên tội phạm nguy hiểm cho trật tự chung, tương lai xứ sở và lề luật Môsê vì thành kiến, vì lợi ích cá nhân, ảnh hưởng phe nhóm, nhất là vì ghen ghét, hận thù. Chỉ có hai ông, một người trong Hội Đồng, một người là thành viên nhóm Biệt Phái đã không tán thành những âm mưu đen tối, bất chấp sự thật của phe nhóm mình. Lương tâm trong sáng đã cho các ông nhận ra sự thật về Đức Kitô và sự thật đã kéo các ông đến với Ngài.
Với lương tâm trong sáng, Nicôđêmô đã nhận ra Đức Kitô là người công chính và tính xác thực của những phép lạ Ngài làm, nên đã kín đáo đến gặp Ngài ban đêm và gọi Ngài là Tôn Sư, Đấng Thiên Chúa sai đến và câu chuyện giữa hai người đã rất phong phú, sống động, thân tình (Ga 3,1-21).

2. Các ông là những người ngay chính, lương thiện nên đã đi vào đối thoại với Đức Kitô một cách cởi mở, chân thành khi tôn trọng sự thật và với thái độ tương kính. Người ta không đối thoại với nhau được phần lớn là vì thiếu lương thiện. Không lương thiện, người ta sẽ “ăn gian, nói dối” khi tranh luận vì sự thật không là mục tiêu phải đạt, sẽ “cả vú lấp miệng em” vì luật rừng của “kẻ mạnh” được lấy làm luật chơi và thói “lấy thịt đè người” được dùng như kỹ thuật dành lợi thế. Chiến thắng sẽ không là sự thật nhưng là kẻ mạnh, người quyền thế và thất bại thấy trước sẽ dành cho kẻ yếu, người thấp cổ bé miệng “không tiếng nói”, không thế lực.
Phải lương thiện như các ông mới dám lên tiếng như Nicôđêmô trước mọi người trong buổi họp, giữa lúc tuyệt đại đa số đồng lòng quyết định phải giết Đức Kitô: “Lề luật của chúng ta không cho phép kết án ai khi chưa tra hỏi người ấy trước và khi chưa biết rõ việc người ấy làm” (Ga 7,51). Lương thiện cũng giúp các ông can đảm, không sợ hãi nhưng chấp nhận bị phản đối, cô lập khi bênh vực người vô tội, bị hàm oan (Ga 7,52). Và lương thiện đã lôi cuốn các ông lại gần Đức Kitô, con người công chính đang bị vu vạ, cáo gian.

3.   Các ông có từ tâm, bác ái khi dùng uy tín của mình đến gặp Philatô và xin tháo xác Đức Kitô. Nếu không có hai ông là những người có thế giá chưa chắc gì xác Đức Kitô đã được trao trả sớm ngay chiều thứ sáu để tẩm liệm xứng đáng, vì người ta có thể để xác tội phạm trên thập giá qua lễ mới cho tháo xuống, đem chôn. Lòng tốt đã thúc đẩy hai ông hăng say, nhiệt tình lo liệu xin lấy xác và chôn cất Đức Kitô: hai ông đã đem đến vải mới, mộc dược, dầu thơm để liệm xác và ông Giuse đã hiến luôn phần mộ của mình cho Đức Kitô an nghỉ (Lc 23,50-53; Ga 19,38-42). Lòng tốt không tính toán, tìm lợi, tìm danh nhưng thầm lặng, kín đáo, nhẹ nhàng của hai ông đã giải quyết nhanh chóng và hữu hiệu “hậu sự” của Đức Kitô và đỡ cho Đức Mẹ cũng như tang gia nghèo một gánh nặng lớn. Thực ra, Đức Kitô bây giờ chỉ còn là một xác chết rách bươm, tím bầm thương tích, có gì để nịnh hót, chạy chọt, còn gì để bợ đỡ, xin xỏ. Lòng tốt ở hai ông lúc này mới tinh tuyền, thuần khiết làm sao, vì không dính bén một sợi chỉ đợi chờ, một đường tơ kiếm chác, ngoài từ tâm, bác ái đối với một con người đã chết, một con người thất thế, hết thời. Thương yêu, giúp đỡ lúc này mới khó, mới tuyệt, vì chỉ duy lòng tốt mới đủ kiên nhẫn ở lại đồng cảm và duy nhất từ tâm mới đủ khả năng có mặt sẻ chia.
Bên cạnh hai ông, có rất nhiều người cùng đi chung tuyến đường kín đáo, bí mật đến gặp Đức Kitô. Họ là những người thiện tâm với lương tâm trong sáng chân nhận sự thật, với lương thiện cởi mở đón nhận sự thật và với bác ái từ tâm yêu thương, bênh đỡ nạn nhân của sự thật. Có thể họ bị coi là những người hèn nhát, không dám công khai chọn một chiến tuyến, một con đường, một lãnh tụ; có thể họ bị chê là những người đi hai hàng, thờ hai chúa, làm tôi hai chủ; có thể họ bị khinh là đám thời cơ chủ nghĩa, đón gió, chờ thời; có thể họ bị miệt thị là những tay “ăng ten”, tên nội gián, kẻ nội thù; có thể họ bị người quen cô lập, xếp vào thành phần không dứt khoát, cuốn theo chiều gió, lừng khừng; và có thể họ bị ngăn cản, cấm đoán đến gặp Đức Kitô vì bị kết án là phường lưu manh, vô đạo…
Nhưng có lẽ, không ai biết họ hơn Đức Kitô vì ban đêm họ đã đến gặp Ngài; không ai hiểu họ hơn Đức Kitô vì lợi dụng đêm hôm, họ đã ngồi hàng giờ tâm sự, đàm đạo, học hỏi với Ngài; không ai quý họ hơn Đức Kitô vì họ đã vất vả thu xếp đến gặp Ngài trước những con mắt cú vọ rình mò và miệng đời ác độc; không ai thương họ hơn Đức Kitô vì hoàn cảnh tế nhị đã chưa cho phép họ đến với Ngài giữa thanh thiên bạch nhật, công khai, phía trước, hàng đầu.
Tuy đứng xa, nhưng có thể họ thấy rõ Đức Kitô hơn người đứng gần, vì mắt họ trong sáng. Tuy bí mật, kín đáo nhưng có thể tình nghĩa giữa Đức Kitô với họ thắm thiết, đậm đà, thân mật hơn người xắng xít, năng nổ, ồn ào nhưng nông cạn, hời hợt. Tuy không mang huy hiệu trên cầu vai, túi áo như những thành viên chính thức của hội đoàn, Giáo Hội, nhưng tâm hồn họ có thể đã đầy ắp Đức Kitô.
Thiên Chúa đến với con người qua những sáng kiến “cao thấu tầng trời, sâu tận vực thẳm” và mở ra hàng ngàn ngàn triệu những con đường dẫn con người đến với Ngài. Vì thế, không ai có quyền ngăn cản Đức Kitô mở lối, không ai có quyền kiểm soát đường bay của gió, không ai có quyền đóng khung, quy định hoạt động của Thánh Thần và Thiên Chúa tự do đến với mọi người trong tình trạng, cảnh huống, điều kiện riêng của họ. Ở trong Chúa, có tất cả những gì đẹp nơi con người, những gì tốt nơi con người, những gì thật nơi con người để tất cả những người thiện tâm khao khát Chân Thiện Mỹ sẽ gặp được Thiên Chúa là Chân Thiện Mỹ tuyệt đối, ước vọng tối hảo của con người.
Hai ông Nicôđêmô và Giuse Arimathê không những đã gặp, đàm đạo với Đức Kitô mà còn được hạnh phúc nhận xác, rồi tẩm liệm, chôn cất Ngài. Ai dám nghĩ hai ông đã không được Đức Kitô thương và ai dám điểm mặt các ông là những tên hoạt đầu, đón gió, chờ thời, hai hàng, ngoại đạo?
Chắc chắn Tuần Thánh năm nay, ở đàng xa, phía sau nhà thờ, trong đêm khuya thanh vắng đang có rất nhiều bước chân rất nhẹ, rất êm tìm đến gặp gỡ Đức Kitô. Đó là những bước chân dễ thương, từ tâm, lương thiện, vững vàng, can đảm nhờ tâm hồn trong sáng, những bước chân, tuy âm thầm, dè dặt, bí mật, không để lại dấu vết nhưng sẽ đi đến tận cùng đường Thánh Giá của Đức Kitô.