Tìm kiếm Blog này

Chủ Nhật, 16 tháng 2, 2020

VII. TÌNH YÊU NGƯỜI NGHÈO

Tất cả những chia sẻ ở trên không thay thế được tấm lòng yêu thương người nghèo như điều kiện phải có ở người làm từ thiện. Kỹ thuật từ thiện, phương án từ thiện, kế hoạch từ thiện, phương tiện từ thiện, tổ chức từ thiện ... ngay cả  con người từ thiện dù tuyệt vời, tài giỏi đến đâu cũng không thể thiếu tấm lòng yêu thương như động cơ làm chạy bánh xe từ thiện.
Thiếu tình yêu dành cho người cơ nhỡ, công trình dù hay đến đâu rồi cũng sẽ chấm dứt. Thiếu một tấm lòng thương người nghèo thật, cố gắng mấy rồi cũng ngã gục, bỏ dở, buông tay. Thiếu tình thương cho người khốn khổ, khó khăn đủ loại, đủ phiá sẽ nhanh chóng đánh gục lý tưởng  từ thiện. Tình thương thật dành cho người nghèo là nền móng vững chắc cho lý tưởng từ thiện, là đôi cánh cho thiện chí từ thiện bay cao, là nguồn sức mạnh cho mọi hoạt động từ thiện, là hy vọng cho mọi ý hướng từ thiện, là  bảo đảm cho mọi ước mơ từ thiện và sau hết là thuẫn đỡ bảo vệ người làm từ thiện trước mọi cám dỗ đầu hàng, buông xuôi; vì những tấn công phi lý và vô trách nhiệm từ nhiều phiá, bởi nhiều nguyên do rất đa dạng và rất khó nhận diện.
Tình yêu thật dành cho người nghèo phải là tuyên ngôn hùng hồn của người làm từ thiện trước những vô ơn, phản trắc. Tình yêu thật dành cho người đau khổ phải là kinh tin kính trước những nghi nan, ngờ vực. Tình yêu thật dành cho người cơ nhỡ phải là  kinh cầu khiêm tốn, đầy xót thương trước những khiêu khích thách thức lòng tự ái, háo thắng, kiêu căng. Tình yêu thật dành cho người yếu đuối, bệnh tật phải là lời hứa cam kết trước những thách đố của nội tâm và áp lực bên ngoài. Tình yêu thật ấy cũng phải là niềm tin, lòng tự hào và niềm vui nơi người làm từ thiện. Và cũng chính tình yêu ấy sẽ  làm cuộc đời từ thiện rực rỡ hạnh phúc, một trời hạnh phúc bao la chỉ có thể nhận và  cảm nghiệm  khi đã hết tình, hết mình cho đi.
Một vài bí quyết ghi nhận được nơi những người lâu năm làm từ thiện:
1.   Bình tĩnh khi bị tấn công:
Câu chuyện có thật “tô bay, điã bay “sau đây ít nhiều nói lên cái khó của từ thiện và sức mạnh của tình yêu; bởi “làm từ thiện không lãnh lương, không lãnh thưởng, nhưng không vì thế mà thỉnh thoảng đã không lãnh tô bay, điã bay vào mặt”.
Chị Dung vừa cười vừa tiếp tục kể câu chuyện xẩy ra cho chính chị ở  khu Xạ Trị thuộc bệnh viện Ung Bướu, Gia Định vào trung tuần tháng 11 năm 2011.
“Một ngày như mọi ngày, 4 giờ sáng tôi đã có mặt để chuẩn bị bữa cháo từ thiện cho bà con bệnh nhân trong khu Xạ Trị. Để tránh tình trạng mất trật tự và khỏi mất thời giờ của mọi người, nhất là để kịp xong trước giờ giao ban của các bác sĩ và y tá, chúng tôi yêu cầu bà con nhận cháo theo thứ tự từng giường. Sáng nay, khi vừa đẩy xe cháo vào phòng 3, tôi đã bị chặn lại bởi một chị bệnh nhân, tay đeo đầy nữ trang, vừa xấn xổ đòi nhận cháo trước mọi người vừa huyênh hoang tự đắc: “Tôi quen nhiều cha,  nhiều sơ lắm... Ông cha L. mới gọi điện thoại thăm tôi đây nè”. Tôi bình tĩnh trả lời : “Em chỉ biết phục vụ bệnh nhân, chứ không biết ai quen cha, quen sơ, quen thầy” và ôn tồn mời chị  trở về giường.
Chưa đến phiên chị nhận cháo, bất ngờ chị nổi sùng ném nguyên cái tô  để đựng cháo vào mặt tôi và oang oang chửi rủa. Chờ cho chị bớt nóng, tôi  vắn tắt nói với chị : “Cháo này là cháo không mất tiền, chúng tôi vất vả tự nguyện đến đây chuẩn bị từ 4 giờ sáng và đem đến mời chị dùng . Không mất tiền  mà chị còn đối xử như vậy, huống hồ  đi ăn tiệm, phải trả tiền, chắc chị còn hống hách, dữ tợn hơn nhiều ”. Và tôi mời chị một lần nữa nhận cháo, nhưng chị tự ái hất phăng tay tôi ra”.
Hai ngày sau, chị xin gặp  và chị đã xin lỗi vì thái độ không đẹp của chị khi cho tôi lãnh “nguyên con” cái tô đựng cháo”.
Hai mươi năm làm từ thiện trong bệnh viện Ung Bướu, chị Dung đã có nhiều kinh nghiệm ứng xử trước những thái độ “không giống ai” của bệnh nhân. Hỏi chị có buồn và nản không ? Chị cười trả lời : “Đôi khi cũng buồn, nhưng tình yêu dành cho bệnh nhân lớn hơn tất cả, nên tôi vẫn vui và tiếp tục phục vụ”.  
2.   Để mình khỏi buồn”:
Đó là lời căn dặn của Đức mà tôi luôn nằm lòng suốt bao nhiêu năm làm việc từ thiện. Em bảo tôi : “Anh phải tập quên ngay người anh giúp và đừng bao giờ nghĩ mình sẽ có ngày nhờ họ hay họ sẽ trở lại thăm hay trả ơn mình. Hầu như tất cả sẽ quên anh, có thể sẽ ngang ngược, phụ lòng tốt của anh hay tệ hơn  nữa là phản bội anh... Khi đó, anh sẽ không qúa buồn và thất vọng vì mình đã không nuôi bất cứ một hy vọng nào”.
Lời khuyên đó tôi đã triệt để áp dụng và đã cho tôi nghị lực, thanh thản và an bình để mải mê làm từ thiện cho đến hôm nay và sẽ mãi cố gắng tiếp tục cho đến hết đời.
Đã có những cơn cám dỗ gìữ người mình giúp đỡ ở lại với mình, có thể vì quá thương họ, hơn là đợi chờ, tìm kiếm điều gì đó nơi họ ; nhưng  lời khuyên của em và hình ảnh chiếc cầu đã luôn giúp tôi tỉnh thức.
Này nhé, nếu khi làm từ thiện, giúp đỡ người khác, tôi tự nhận mình là nhịp cầu tre, cầu gỗ hay cầu sắt đưa khách qua sông, qua đèo hay qua thung lũng thì tôi không thể giữ mãi ngườì qua cầu ở lại trên cầu, cũng không nên cầm giữ bước chân những khách bộ hành đi qua; vì nhịp cầu là “tôi”  bé quá sẽ bị chiếm đóng, cắm lều và không còn chỗ trống đón những bước chân sắp đi tới, đang cần nhịp cầu để vượt qua khó khăn; vì nhịp cầu là “tôi” yếu đuối sẽ sụp đổ thảm thương nếu hàng trăm người chen chúc ở lại trên cầu; vì nhịp cầu là “tôi” chật hẹp quá sẽ không cho không gian, dưỡng khí và điều kiện sống cần thiết; vì nhịp cầu là “tôi” ngắn ngủi quá sẽ không mở ra cho ai đường đi tới, về một tương lai sáng lạn; vì nhịp cầu là “tôi” tầm thường qúa sẽ không thăng tiến được ai, không hướng cho ai đến một lý tưởng thích hợp; vì nhịp cầu là “tôi” mong manh qúa sẽ không bảo đảm được ngày mai của người đến với tôi; vì nhịp cầu là “tôi” nghèo nàn quá sẽ không làm giàu được đời sống của những người muốn ở mãi với tôi trên cầu.  Là nhịp cầu, tôi phải đón những bước chân người đi, nhưng đi qua thôi, không được dừng lại trên cầu và nhất là không được ở lì mãi trên đó. Là cây cầu, tôi đón khách, rồi tiễn chân khách ngay sau đó, không chần chừ, tiếc nuối, bịn rịn, đòi hỏi; vì nhịp cầu chỉ là nhịp cầu và có giá trị khi sống đúng bản chất là “phương tiện cho người đi qua, vượt qua” và sống đúng sứ mạng “nối hai bến bờ” của nó. Nối hai bến bờ chứ không bao giờ được tự biến chất hay thay đổi sứ mạng để trở thành “bến, bờ”. Bởi khi đòi làm bến, làm bờ, làm đích đến, cây cầu sẽ đánh mất ý nghiã đời mình là “nối kết, giao liên”.
Làm cây cầu cho đàn em, làm nhịp cầu cho đàn con, đàn cháu qua đó mà đi tiếp, qua đó mà đi lên, qua đó mà đạt đích tới là nét đẹp không gì so sánh được của người làm từ thiện. Họ đã  khiêm tốn, hy sinh, thinh lặng, âm thầm nằm xuống làm nhịp cầu cho mọi người buớc qua, đạp lên không vì  quyền lợi của họ, nhưng vì hạnh phúc của những vị khách qua cầu này hoặc nhẹ nhàng,  hoặc tế nhị,  hoặc hùng hổ, hoặc vô tình, hoặc lạnh lùng, hoặc vô cảm, hoặc ung dung, hoặc tỉnh bơ không thắc mắc  đang bước qua đời họ để đi lên, đi tới..
Hình ảnh nhịp cầu cũng là hình ảnh ông lái đò. Ông lái đò đã đưa bao nhiêu khách qua sông từ năm này sang năm nọ. Bao nhiêu khuôn mặt, bao nhiêu tâm tình, bao nhiêu kỷ niệm của khách qua sông đã ở trong ông và làm nên đời ông, nhưng tuyệt nhiên ông không giữ ai lại mãi trên đò. Ông chỉ mong chèo chống cho nhanh, cho khéo, cho an toàn để khách còn tiếp tục hành trình trước mặt, và ông còn kịp quay lại bờ bên kia đón khách. Công việc của ông là đưa khách qua sông, chứ không giữ khách mãi trên sông, vì sông là nơi phải vượt qua và con thuyền là phương tiện để vượt qua không gian khó khăn đó. Ông mãi vui với nghề đưa khách qua sông đã bao nhiêu năm, mà ông không  hề để ý đã có bao nhiêu khách đã nhờ đò ông mà thành công, thành đạt. Thực ra chính cái ông “không để ý” đã cho ông niềm vui và hạnh phúc được mãi là ông lái đò đưa khách qua sông.
Nhịp cầu và con đò là hai hình ảnh nâng đỡ, hai hình ảnh trợ lực, hai hình ảnh biểu tượng lý tưởng đã giúp ta không buồn, hay đúng hơn là không biết buồn như ông lái đò đã “không để ý “ trước những vô tình, vô ý, vô ơn của những người nhận từ ta sự giúp đỡ. Hai hình ảnh đã trở thành kim chỉ nam cho đời làm việc. Và ta sẽ thấy mình là người hạnh phúc khi dấn thân phục vụ  người khác. 
3.   “Cứ gieo hào phóng”:
Nhạc sĩ Giám Mục Thông Vi Vu nhắn nhủ tôi như vậy khi Ngài viết nhạc bài “Gieo và Gặt “. Thế ra “làm từ thiện “ không chỉ đóng khung trong quan niệm cổ điển là “cho  người nghèo tiền bạc, của ăn, áo mặc”, mà còn là gieo, gieo những hạt giống tốt trong cuộc đời, gieo những hạt giống nhân ái trong trái tim mọi người, gieo những hạt hạnh phúc trong đời sống từng người. Làm từ thiện là thực hiện công tác từ ái, thiện hảo, nên bất cứ công việc tốt lành, nhân bản, hành động tử tế, dễ thương, công tác xây dựng, thăng tiến nào cũng đều nằm trong vùng phủ sóng của “làm từ thiện”. Từ thiện là bác ái, từ bi; là đồng tâm, đồng hành; là chia sẻ, đùm bọc; là kết nối, yêu thương.
Từ thiện không chỉ còn là cho đi , nhưng còn là nhận lãnh; bởi đã có gieo, ắt sẽ được gặt; có những ngày gieo trong nước mắt thì cũng có ngày gặt giữa tiếng ca; có ngày vất vả chân lấm tay bùn thì cũng có ngày mùa mừng vui.
Cho đi và nhận lãnh là hai mặt của đồng bạc như gieo và gặt, như sẽ gặt những gì đã gieo. Tóm lại, từ thiện là công việc của con người làm cho con người mà mục đích là nâng đỡ, xây dựng nhau. Trong từ thiện, bản tính “người” của con người được biểu lộ và giá trị “người” của con người được biểu dương.
Từ thiện như thế không còn là việc của một vài người, một số đoàn thể, nhưng là việc chung, việc tự nhiên phải làm của mọi nguời. Mỗi cá nhân đều mang sứ mạng làm từ thiện, vì mỗi người đều được gọi vào đời để sống với người khác, và khi sống với,  nhu cầu chia sẻ, đùm bọc, yêu thương sẽ thúc bách mọi người nghĩ đến nhau. Như thế chương trình “làm từ thiện” sẽ là công việc không biên giới và người gieo sẽ vui tươi, hào phóng tung hạt như Thông Vi Vu diễn tả trong bài “Gieo và Gặt” :  
“Gieo Thành Thật, gặt  được Niềm Tin
Gieo Lòng Tốt, gặt được Thân Tình
Gieo Kiên Nhẫn sẽ gặt Quang Vinh
Gieo Tha Thứ sẽ gặt được An Bình”.

4.   Cùng tìm giải pháp:
Emmaus là tổ chức từ thiện do cha Pierre (5/8/1912- 22/1/2007), người Pháp thành lập lấy tên con đường ngày xưa trên đó hai môn đệ của chúa Giêsu đã đồng hành trong đau buồn, thất vọng sau khi Thầy bị đóng đinh. Cũng trên con đường chất ngất đau buồn, tuyệt vọng này, chúa Giêsu đã hiện ra với hai ông. Ý nghiã của con đường Emmaus là Chúa luôn có mặt, khi chúng ta đồng hành và chia sẻ với nhau từ cơm bánh, nhà ở đến niềm vui, nỗi buồn...
Năm 1949, một người tù vừa được trả tự do, sau khi tự tử hụt vì không có gì để sống đến gặp cha Pierre. Đối diện với anh, cha Pierre đã nói: “Tôi chẳng có gì cho anh và anh cũng chẳng có gì. Thôi, thay vì bó tay chịu chết, anh đến giúp tôi đi để tôi có thể giúp anh”. Và ông bạn tù tự tử hụt vì túng bấn ấy đã là thành viên thứ nhất của  tổ chức Emmaus.
Chủ trương của Emmaus là giúp những người nghèo đuợc sống xứng đáng bằng chính việc làm của mình và độc lập là nguyên tắc vàng của Emmaus. Những người nghèo, cơ nhỡ, không nhà cửa, bệnh tật, cô thân làm thành những nhóm nam - nữ riêng, nhưng sống chung như gia đình. Công việc hằng ngày là thu gom tất cả đồ cũ như sách vở, quần áo, chén diã, giường tủ, tivi, máy giặt, tủ lạnh, xe đạp, vi tính,... và bất cứ đồ gì còn có thể dùng được. Những đồ cũ này được đưa về để anh em cùng nhau sửa chữa, tu bổ, tân trang, rồi được bán lại với một giá rất rẻ cho mọi người mà phần lớn cũng là những người nghèo.
Mục đích là tạo cho người nghèo việc làm và cho những người nghèo khác cơ hội được dùng những phương tiện vật chất mà cứ sự thường họ không bao giờ có đuợc, vì không có tiền mua đồ mới  trong siêu thị, cửa hàng. Mua với giá rẻ những đồ đã dùng rồi, người nghèo sẽ sắm được những món đồ vừa cần thiết vừa  dần dà nâng cao đời sống của họ.
Trung bình mỗi huynh đoàn gồm 50 đến 60 người. Điều kiện để được nhận vào huynh đoàn rất đơn sơ, được tóm gọn trong câu nói bất hủ của người sáng lập : “Bất kể anh, chị là ai, nhưng nếu anh chi đau khổ, hãy đến đây ở, ăn, ngủ và tìm lại niềm Hy Vọng, vì ở đây anh, chị được yêu thương”.
Đau khổ là điều kiện duy nhất để được nhận vào huynh đòan, nên huynh đòan Emmaus hầu như không thiếu một bộ mặt nhân loại đau khổ nào: người nghèo, người thất nghiệp, người ngoại quốc không giấy tờ, người mới ở tù ra, người bị gia đình xua đuổi. Họ giống nhau vì cùng đau khổ và cùng muốn làm lại cuộc đời từ niềm Hy Vọng tìm thấy dưới mái ấm Emmaus.  Hiện trên nước Pháp có 117 huynh đoàn Emmaus với 6899 thành viên. Số thiện nguyện đến giúp Emmaus là 3262, chưa kể các huynh đoàn Emmaus đã có mặt trên 36 quốc gia  khác ở Phi Châu, Á Châu và Nam Mỹ.
Mỗi huynh đoàn có một giám đốc phụ trách điều hành sinh hoạt đời sống, tổ chức công việc, chuẩn bị tương lai cho từng thành viên. Mỗi thành viên đều làm việc và một phần lợi nhuận do công việc sẽ được giữ lại với mục đích chuẩn bị tương lai cho thành viên này, vì mục tiêu sau cùng của Emmaus vẫn là tạo cho mỗi người một đời sống riêng, độc lập, có công ăn việc làm, có gia đình và đời sống hạnh phúc như mọi người bình thường khác.
Chọn gia đình là khuôn mẫu, nên mỗi thành viên là thành phần của gia đình. Mỗi người có quyền lợi và bổn phận của một người anh, người em, người chị trong gia đình là yêu thương, tương trợ, nâng đỡ và thăng tiến nhau. Không có giới hạn thời gian cho thành viên được ở trong huynh đoàn, và thành viên chỉ rời tổ ấm khi đủ khả năng độc lập như con lớn khôn, trưởng thành rời mái nhà cha mẹ đi ở riêng, xây tổ ấm mới.
Cùng tìm giải pháp là cách giúp đỡ tốt nhất đối với người cần được giúp đỡ; vì hơn ai hết, họ biết họ có thể làm được gì và cần gì ở người khác. Giúp đỡ mà không lắng nghe cũng như yêu thương mà không đối thoại. Thiếu lắng nghe, đối thoại, tất cả sẽ bế tắc, bắt đầu từ bế tắc thông tin, đến bế tắc tình cảm, sau cùng là bế tắc chọn lựa, hành động.
Khi ai đến với ta, hay ta đến với người nào đó, việc cần làm trước hết là tìm xem đâu là nhu cầu của họ và đâu là khả năng của ta. Phải biết ta, biết người mới có thể thành công. Cũng có khi ta hoàn toàn bất lực trước những nhu cầu của người đối diện; khi đó, việc duy nhất phải làm chính là ngồi với họ và cùng  họ tìm một giải pháp đơn giản nhất, có thể thực hiện ngay, và rất cụ thể để ta với họ cùng giúp nhau ra khỏi bế tắc. Không cần nhiều lời, không nên toan tính xa xôi, phức tạp, nhưng nên nhắm những gì thực tế và ích lợi trước mắt dù rất nhỏ,  như cha Pierre đã làm với người bạn nghèo khi anh đến tìm cha, sau khi tự tử hụt. Cha không có sẵn giải pháp, nhưng ngồi với anh, cả hai đã  cùng khai sinh chương trình bác ái Emmaus. Nhờ ngồi với nhau và cùng tìm giải quyết bế tắc, cha Pierre đã thực hiện một phép lạ yêu thương vĩ đại mà chính Ngài đã không ngờ.
Thực vậy, chúng ta có thể nói mà không sợ đại ngôn: phép lạ tình yêu là do chính chúng ta làm cho nhau, vì Thượng Đế  tràn ngập Tình Yêu tuyệt vời của Ngài trong mỗi người, đến nỗi chỉ cần  một chút thiện chí “ngồi với nhau”, người ta có thể làm cho nhau nhiều điều kỳ lạ, nhờ sức mạnh nhiệm lạ của Tình Yêu mà Thượng Đế đã quảng đại ban cho con người.
Ý thức ơn huệ và khả năng yêu thương, ta sẽ trân qúy những gì là yêu thương, những gì thuộc về yêu thương, những gì dẫn đến yêu thương. Khi trân qúy những giá trị của tình yêu, ta sẽ không ngại tìm kiếm, xây dựng những giá trị này và nhờ thế, cuộc sống nhân loại ngày càng tươi đẹp, bình an khi tình yêu ngự trị; vì con người không thể hạnh phúc nếu không yêu thương nhau; bởi mọi người đều đã được sinh ra từ một cội nguồn Tình Yêu.
5.   Ở đây và ngay bây giờ  “Hic et nunc”:          
Với Tình Yêu và niềm Hy Vọng, chúng ta cứ bắt đầu bước chân thứ nhất ... còn đường dài  ngày mai đã có Trời và nhiều người thiện chí, nhiều tâm hồn quảng đại, nhiều bước chân dấn thân khác sẽ tiếp nối kiện toàn. Việc của chúng ta là “ở đây, và ngay bây giờ”.
Có những người nghèo chỉ chờ ở ta một bàn tay nắm chặt, một nụ cười cảm thông, một chiếc khăn, một miếng bánh, một ly nước, vài chục ngàn; nhưng ta không làm. Không làm không phải không làm được hay không được làm; nhưng không làm vì:
a.   Ta nấn ná, chần chừ để việc đó cho ngày mai, tuần tới, tháng tới, năm tới. Khi không làm liền ngay điều có thể làm, chia sẻ ngay những gì đang có, ta đã đánh mất cơ hộiyêu thương người nghèo trong khi họ đang cần ta thương, rất cần ta giúp. Rất có thể họ chỉ cần ta lúc này và ở đây, còn ngày mai, họ không  cần ta nữa; nhưng  vì tình yêu dành cho  người nghèo không đủ lớn, nên ta đã không mau mắn ra tay giúp đỡ, nhưng trễ nải, triển hạn, kể cả nhẫn tâm “xù” luôn cuộc hẹn với họ những ngày sau đó; bởi họ nghèo và không mang lại lợi lộc, vinh dự gì cho ta.

 b.   Cũng có thể ta không làm ngay, giúp ngay vì ta ngại những gì mình giúp ít ỏi, nhỏ bé qúa. Ta nghĩ: đã làm thì phải làm cho ra trò, đã giúp thì phải giúp cho đáng; cũng có thể, người nghèo khó tính có thể cự lại ta, nếu tặng phẩm ta cho họ không đúng mức họ cần, không như họ đợi chờ, ước mơ. Chính những lý do này đã làm ta ngại và dễ dàng bỏ nhiều cơ hội làm từ thiện.  
Thế mới biết: làm từ thiện không dễ, không dễ vì người cho có nhiều khó khăn tâm lý, khó khăn vật chất; mà còn khó vì người nhận không dễ “chịu nhận” những gì người khác chia sẻ, trao tặng; cũng vì nhiều lý do tâm lý phức tạp.
Tuy thế, người làm từ thiện nên nhủ lòng: không để người nghèo trở về tay không, khi làm ngay những gì có thể làm, giúp liền những gì có thể giúp, dù rất ít, rất nhỏ. Đừng quên một đồng “ngay bây giờ và ở đây” nếu được cho với cả tấm lòng sẽ lớn hơn bạc triệu ở một nơi, một thời điểm khác…
 
6.   Yêu và ở lại:
Người ta có thể làm từ thiện  kiểu “cưỡi ngựa xem hoa”, nghiã là đi nhanh qua, thoáng qua, nhưng không bao giờ dừng lại, chưa nói đến ở lại; trong khi yêu thương luôn đòi ở lại.
Có nhiều cách làm từ thiện và mỗi cách mang lại hiệu qủa khác nhau; nhưng cách nào đi nữa, người làm từ thiện cũng được mời gọi “ở lại” với người nghèo được giúp đỡ. Ở lại bằng nhiều cách, dưới nhiều dạng để người nghèo không tủi thân vì nghĩ mình chẳng giá trị hơn một đàn heo đói meo chờ cám.
Hình ảnh “người Samaritanô nhân hậu, bác ái” trong Kinh Thánh là hình ảnh người làm từ thiện với tình yêu biết  “ở lại” với người được giúp đỡ. Tình yêu “ở lại” mới thực là tình yêu quan tâm hết tình, và phục vụ hết mình.

0 nhận xét: