Có ai suốt đời chỉ cho hoặc nhận, mà không nhận và cho, bởi ai cũng có lúc cho, và lúc nhận, khi là kẻ nhận, khi là người cho, vì cho - nhận là hạnh phúc, và nghiã vụ của mỗi người suốt đời làm người.
Qủa
thực, ai cũng phải nhận : nhận tình yêu và hy sinh trời bể của cha mẹ, anh
chị em, vợ con, thân nhân, bạn hữu ; nhận lòng tốt và giúp đỡ của rất nhiều
người, nhận kiến thức của cả loài người từ cổ chí kim, nhận thành qủa khoa học
của vô số người tài giỏi, xuất chúng để đời sống mỗi ngày được bảo đảm an toàn,
thoải mái, hạnh phúc hơn ; cả khi nhắm mắt chết rồi cũng còn nhận đươc từ
nhiều người lời cầu nguyện, tâm tình lưu luyến, tiếc thương.
Bên
cạnh niềm vui lãnh nhận, hạnh phúc được chia sẻ, con người còn niềm vui khác lớn
hơn là cho đi, hạnh phúc sâu đậm hơn là trao ban, dâng hiến. Chúng ta có thể
không nhận ra mình đang trao ban, khi tận tụy làm việc, âm thầm đóng góp công sức
cho sinh hoạt vật chất, tinh thần cũng như tâm linh của nhiều người chúng ta
thương, hoặc có bổn phận ; chúng ta cũng có thể không để ý đến những việc
mình làm, tuy nhỏ bé, nhưng giúp nhiều người được hạnh phúc hơn, nhưng giá trị của
trao ban, dâng hiến thì không bao giờ sút giảm hay mất đi, nhưng mang lại cho
chúng ta niềm hạnh phúc, bình an sâu lắng.
Tóm
lại, sống là nhận lãnh và trao ban. Không có người chỉ cho mà không nhận, cũng
chẳng có ai chỉ nhận mà không cho. Thiếu một trong hai, cuộc sống sẽ lệch lạc,
mất quân bình, vì vô nghiã.
Vô
nghiã khi tính liên đới ở con người không được thể hiện, phát triển ; vô
nghiã khi tính xã hội bị ngộp thở, bức tử ; vô nghiã khi hạnh phúc tương
trợ giữa người với người không có đất sống, và tất cả dồn con người vào tình trạng
cô độc làm hao mòn, cạn kiệt sức sống, tàn phá khả năng sống hạnh phúc là mục
đích của đời sống con người, bởi chỉ nhận mà không cho, chỉ cho mà không nhận,
cả hai đều không đem đến hạnh phúc đích thực, và viên mãn.
Nhưng Cho và Nhận thế nào?
Bởi
có nhiều người cho như bố thí, cho như “hất vào mặt”, khi thái độ cho không biểu
lộ lòng tôn trọng, không trân trọng người nhận và cũng chẳng trân qúy của được
cho ; bởi có nhiều người cho cách lạnh lùng, lãnh đạm, thờ ơ, cho để được
yên thân, cho để khỏi bị quấy rầy, phiền phức, cho để bỏ đi những gì không
còn cần thiết, bởi có nhiều người vừa
cho vừa the thé kể lể công lao, vừa cho vừa bắt người nhận phải “phủ phục” trước
công đức cao dầy của mình, vừa cho vừa kê hoá đơn, vừa cho vừa dậy bảo, lên lớp,
dằn mặt người nhận…
Cho
như thế không phải là cho, mà là bỏ đi những đồ mình không cần, khi coi người
nhận như thùng rác để tha hồ vứt bỏ những đồ phế thải, hết xài.
Về
phiá người nhận, có người nhận lòng tốt của người cho như nhận một tai ương, nhận
một gánh nặng, khi tỏ thái độ không vui, nhưng khó chịu, bực dọc. Nhận món qùa nhỏ,
không mấy có giá trị vật chất thì bĩu môi, lắc đầu khinh miệt người cho ;
nhận món đồ không vừa ý thì giẫy nẩy kêu trời ; nhận qùa tặng không thích,
thì sầm nét mặt, giận dỗi người cho.
Nhận
như thế là nhận với tinh thần kẻ cả, vua chúa, khi cho rằng mọi người đều có bổn
phận “triều cống”, biếu xén mình, vì mình là người nắm quyền sống chết trên mọi
người. Nhận như vậy là nhận với trái tim kiêu căng coi người cho chẳng ra gì,
và tặng vật không bao giờ xứng đáng, phù hợp với địa vị, vai vế của mình.
Đó
là lý do nhiều người đã không muốn cho, lý do nhiều người đã thất vọng khi dấn
thân làm từ thiện, mà trên mạng lúc này nhan nhản những câu chuyện được kể lại
bởi những anh chị em trong các chương trình thiện nguyện đó đây, những câu chuyện
làm cả người cho và người nhận đều “dở khóc dở cười”.
“Dở
khóc dở cười” khi người cho bị người nhận hạch hỏi đủ điều, nào là tiền từ đâu,
tại sao không cho mọi người đồng đều, sao không làm thế này thế kia, vân vân và
vân vân? Chưa kể người cho còn bị người nhận gọi điện thoại, hay chặn xe hùng hổ,
dữ tợn đe dọa…
“Dở
khóc dở cười” khi người nhận bị người cho “hành tới bến” khi điều tra hết vòng ngoài
đến vòng trong, hết qua tổ chức này đến tổ chức nọ trước khi được nhận đồ cứu
trợ. Điều tra đã đành, nhưng có khi còn lên lớp, mắng nhiếc, thì qủa là khổ
thân cho người nhận trong cảnh thiếu thốn cùng cực phải cắn răng cậy nhờ sự giúp đỡ của người khác.
Nếu
phải kể ra những chuyện “dở khóc dở cười” thì nhiều lắm, và có lẽ chẳng bao giờ
hết chuyện để kể. Vấn đề ở đây là làm thế nào cả người nhận và người cho có thể
hạnh phúc khi cho và nhận.
Chúng
ta tạm để qua một bên số rất ít những người cho với mục đích ích kỷ, tìm tư lợi
bất chính, theo kiểu “cho con tép để bắt con tôm”, còn lại phần đông khi làm
thiện nguyện đều hướng đến một mục đích tốt, được thúc đẩy bởi động cơ tốt.
Khác
với người cho, về phía người nhận, thì tâm tình và thái độ rất phức tạp, vì có
người nhận luôn tự cho mình cái quyền phải được người khác giúp đỡ, cái quyền
phải được người khác cho, cái quyền được hạch hỏi người cho, vì nghĩ rằng người
cho đã nhân danh mình mà kiếm chác những mối lợi ngàn lần lớn hơn, đã lợi dụng
cảnh khổ của mình mà đánh bóng tên tuổi, làm giầu ; lại có những người xem
thường, coi nhẹ lòng tốt của người cho, khi nghĩ rằng : không cho mình, họ
cũng cho người khác, nên không việc gì phải bận tâm, nặng lòng.
Suy
nghĩ cho cùng, chúng ta sẽ thấy cả hai bên người nhân và người cho đều thiếu một
Tình Yêu Biết Ơn. Đây là mấu chốt của mọi vấn đề, nguyên nhân của những câu
chuyện “dở khóc dở cười” khi cho và nhận.
Nếu
người cho có trong trái tim Tình Yêu Biết Ơn khi cho, người ấy sẽ không cho một
cách trịch thượng, kẻ cả, cho nhưng thiếu tôn trọng người nhận, cho nhưng làm tổn
thương người được cho, bởi Tình Yêu Biết Ơn nhắc cho họ công ơn của bao nhiêu
người đã cho họ, từ tình yêu, sự sống, đến kiến thức, nghề nghiệp và cơ hội
thành công. Tình yêu Biết Ơn sẽ nói cho họ đừng quên đời họ đã được làm nên nhờ
lòng tốt và công sức của bao nhiêu người để họ được ở vào vị trí người cho hôm
nay, nên việc làm cho đi, dâng hiến, trao ban của họ là hành động đền đáp, trả
ơn những người đã cho họ, những ân nhân đã góp tình yêu, công sức, lao nhọc xây
dưng đời họ, mà họ không được gặp lại để trực tiếp đền ơn, đáp nghiã. Cũng vì
không được gặp lại tất cả những ân nhân đã làm ơn cho mình, mà họ phải biết làm
ơn cho người khác là những người xa lạ, không quen biết, vì đó là nghiã vụ của
tình yêu biết ơn.
Với
tình yêu biết ơn khi cho đi, người cho sẽ không cho với kiểu cách của kẻ có quyền,
nhưng với tâm tình của người chịu ơn, với thái độ của người đang làm nghiã vụ đền
ơn những người đã làm ơn cho mình, bằng cách làm ơn, giúp đỡ người khác. Và tâm hồn người cho sẽ tràn đầy
hạnh phúc của tình yêu biết ơn.
Với
người nhận, nếu tình yêu biết ơn ở trong tim, mắt người ấy sẽ nhìn thấy tình
yêu trong tim người cho, hy sinh trên
đôi chân người cho khi vượt sông vượt núi, bất chấp nguy hiểm đến với họ nơi xa
xôi, hẻo lánh, bão lụt ; nếu có tình yêu biết ơn ở trong tâm hồn, miệng
người nhận sẽ không buông ra những lời ác độc vô ơn, nhưng thân thương huynh đệ ;
nếu có tình yêu biết ơn trong đáy lòng, hạnh phúc sẽ lớn gấp bội, vì họ không
chỉ nhận qùa tặng vật chất, mà còn nhận được chính trái tim ăm ắp tình yêu của
người cho ; nếu có tình yêu biết ơn trong thái độ nhận lãnh, niềm vui sẽ
tăng gấp ngàn lần, vì không niềm vui nào có thể so sánh với niềm vui khi biết
mình được được yêu thương và được quan tâm chia sẻ, giúp đỡ.
Vâng,
chúng ta rất cần tình yêu biết ơn trong cuộc sống, nhất là ở thời đại này, khi
lòng biết ơn bị mất giá thảm hại, và tình yêu không còn là giá trị được mọi người
trân qúy, gìn giữ. Nhưng rất tiếc, thiếu tình yêu biết ơn, đời sống không vui,
không hạnh phúc, vì người cho kẻ nhận luôn làm tổn thương nhau, bắt nhau phải “dở
khóc dở cười”, khi không yêu thương, biết ơn nhau, trong khi luật xã hội không cho con người sống mà không biết cho và
nhận, và niềm vui, hạnh phúc được làm người không đến với người chỉ nhận mà
không cho, chỉ cho mà không nhận với tình yêu biết ơn người.
Jorathe
nắng Tím
0 nhận xét:
Đăng nhận xét