https://www.youtube.com/watch?v=otX_ljXsNiA
Tháng Sáu có lễ Thánh Tâm Chúa, cũng là tháng Giáo Hội
dành đặc biệt để kêu gọi tín hữu tôn sùng, đền tạ Thánh Tâm Chúa làm tôi không
khỏi nghĩ đến Giáo Điểm Tin Mừng ở Nhà Bè, thuộc tổng giáo phận Sàigòn, nơi mà
mỗi ngày có hàng ngàn người lương giáo cùng qùy cầu nguyện với Thánh Tâm đầy
lòng thương xót.
Tôi còn nhớ, một ngày thứ Sáu đầu tháng, giữa trưa hè,
dưới cái nắng chói chan, nóng bức, oi ả của Sàigòn, tôi đã đến Giáo Điểm, vừa để
xưng tội, vừa tò mò xem cha Long giảng dạy, tổ chức Giáo Điểm thế nào … mà càng
ngày càng nhiều người thương, ghét, ủng hộ, chống đối qúa!
Hơn 6 tiếng đồng
hồ ở Giáo Điểm, tôi đã thấy từng đoàn người lũ lượt kéo nhau đến. Họ thuộc đủ
thành phần từ nhiều vùng miền được nhận ra qua giọng nói. Giáo điểm được tổ chức
sạch sẽ, trật tự, phục vụ hết mức có thể, từ cổng vào đến cung thánh, từ khu
bán ảnh tượng, đồ lưu niệm, thức ăn, nước uống, chỗ giữ xe miễn phí đến khu vệ
sinh, chỗ nào cũng được quét dọn liên tục. Khách hành hương rất ý thức việc giữ vệ sinh chung và ai nấy rạng rỡ niềm vui
về nhà Cha, ở dưới mái ấm chở che, an ủi, chữa lành của lòng Chúa thương xót .
Sở dĩ tôi dám
nói vậy, vì không ai có thể chối cãi đức tin đơn sơ, nhưng thuyết phục của những bà mẹ quê chân tay còn
lấm bùn, mắt long lanh ngước cao, môi mấp máy cầu nguyện ; những thanh
niên, thiếu nữ “thời đại” nghiêm trang trước Mình Thánh Chúa, hai tay ôm đầu,
khiêm tốn thầm thĩ xét mình xưng tội ; tôi cũng thấy anh chị em trong ban
Phục Vụ niềm nở, thân thiện hướng dẫn chỗ gửi xe cho những người mới lần đầu đến
Giáo Điểm, và tôi không khỏi xúc động trước niềm tin của anh chị em các tôn
giáo bạn kính cẩn “vái
dài, vái sâu”
trước tượng Chúa Giêsu của lòng thương xót, và hai vị tông đồ của Lòng Thương
Xót Chúa : thánh nữ Faustina và đức thánh giáo hoàng Gioan Phaolô đệ nhị.
Tôi không thuộc
chiến tuyến, phe cánh nào trước hiện tượng “cha Long “Lòng Chúa Thương xót”, danh xưng được dành riêng cho một con người, một
linh mục được coi là rất “hot”, “siêu
sao”, “thần tượng” có người còn phong “thánh sống” từ những năm gần đây, do sức lôi cuốn mãnh liệt của
con người này, và những bài giảng đầy xác tín, cùng những “phép lạ” từ việc đặt tay chữa bệnh, chúc lành của vị linh mục
một thời là tu sĩ dòng Thánh Thể.
Tôi quen biết cha Long từ những ngày được gọi là “u ám, ảm đạm” của ngài, khi Cha gặp khó khăn với nhà Dòng, rồi đau
bệnh, phải nghỉ dưỡng ở nhà người chị, trong giáo xứ Tân Việt. Ngày ấy tôi đi
theo một cha bạn và được may mắn chào thăm, quen biết cha Long, và mãi đến hôm
nay, tôi không có dịp gặp lại ngài.
Thời gian trôi nhanh với Giáo Điểm Tin Mừng ngày càng
phát triển, thu hút nhiều người lương, giáo đến nghe giảng và cầu xin với Lòng
Thương Xót Chúa. Tôi được nghe về nhiều ơn
lạ đã được Chúa ban ở nơi này, nhưng đồng thời cũng “đầy tai những ý kiến thuận và nghịch, khen và chê, nhiệt
liệt ủng hộ và kịch liệt chống đối cha Long của đủ mọi tầng lớp, từ “bình dân học vụ » đến trí thức khoa bảng, từ giáo
dân đến Giáo Sĩ, Giáo Phẩm. Và tên cha Long gắn liền với Giáo Điểm Tin Mừng, cùng
với “uy tín” và cả “tai tiếng” của Cha.
Hôm nay, tận trời
Paris, ở thời điểm tôi đang viết, cha Long và Giáo Điểm Tin Mừng đang là “điểm nóng, điểm đỏ, điểm ngắm” của nhiều người, nhưng cũng là “điểm son, điểm hẹn, điểm đến” của số đông ngày càng gia tăng.
Sở dĩ tôi mượn tháng sáu của Thánh Tâm Chúa để viết về
cha Long và Giáo Điểm Tin Mừng là vì tôi cần Lòng Thương Xót của Thiên Chúa làm
chià khoá để tháo cởi những trói buộc của hiềm khích, đố kị giữa những người
anh em cùng một Cha ; làm ánh sáng để phá tan bóng tối hiểu lầm, hiểu sai
vì thành kiến và ác ý của những người cùng một lý tưởng ; làm bóng mát, dòng
sông để xoa dịu cơn sốt quyền lực, quyền lợi mà anh em một nhà đang trút đổ trên
nhau ; làm “mẫu
số chung”
để những khác biệt, đối kháng được hoá giải và hoà giải ; làm nền tảng để
xây dựng mái ấm tình thương cho nhân loại, cũng là Đền Thờ của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Với tâm tình và niềm xác tín đó, tôi mạo muội chia sẻ với Bạn, người đang đọc
những tâm sự này :
Trước hết, chúng ta không thể phủ nhận những ý kiến, quan điểm và chọn lựa ủng
hộ công việc truyền giáo của cha Long của một số đông gồm cả hàng giáo sĩ, tu sĩ,
bằng chứng là số người đến Giáo Điểm Tin Mừng ngày càng gia tăng, và nhiều bài
viết từ các linh mục. Và nói gì đi nữa, hoặc bênh hoặc chống, chúng ta cũng dành
chút thời gian để nhìn vào những con người dắt dìu nhau tìm đến Giáo Điểm.
Người ta đến đó với nhiều mục đích, do nhiều nhu cầu
khác nhau : có người đến để tham quan cho biết, bởi ra vào không ai hỏi giấy
tờ, không cần khai báo với các anh Bảo Vệ ; có người đến để quan sát, nghe
ngóng, thăm dò xem cha Long có lạc đạo, giảng dạy bừa bãi, làm lễ không đúng
quy luật phụng vụ, hay lạm dụng sứ vụ loan báo Tin Mừng để làm tiền, làm chính
trị không ; có người đến nhìn ngó thùng tiền to đùng và tìm hiểu đường đi
của những đồng tiền ấy có đúng hướng, đúng địa chỉ không ; có người đến để
hỏi thăm công việc của nhóm Phục Vụ, Ca Đoàn may ra có tìm được kẽ hở “lừa bịp” nào đó của cha Long trong việc “đạo diễn” gọi người này, kêu người kia lên cung thánh “kể lể”
gia cảnh, hoàn cảnh và làm chứng “phép lạ” mới nhận được tại Giáo Điểm sau khi được ngài đặt tay
cầu nguyện, chữa lành ; cũng có người đến để thử vận, đón gió, chờ thời với hy
vọng may ra Chúa làm phép lạ cho đổi đời.
Nhưng bên cạnh
thiểu số đến Giáo Điểm với những mục đích, nhu cầu vừa kể, chắc chắn đã có và đang
có rất nhiều người đến Giáo Điểm với nhu cầu và mục đích hoàn toàn khác : họ là
những người đến với tất cả yếu đuối thân xác và linh hồn ; đến bằng niềm
tin đơn sơ, tín thác ; đến trong hy vọng được Chúa thương xót chữa lành không
chỉ vết thương, vết bầm thân xác, mà cả
những vết hằn, vết đau tâm hồn.
Họ đến vì cần Chúa, bởi chỉ có Chúa mới có thể cứu họ, sau khi đã chạy chọt
các cửa, cầu cứu đủ nơi ; họ đến vì biết Chúa làm được mọi sự, bởi “không có gì là không thể làm được đối với Thiên Chúa”, sau khi đã bôn ba, đôn đáo khắp nơi “chạy thầy chạy thuốc” nhưng tất cả đều bó tay, bất lực ; họ đến vì tin
Chúa thương và không từ chối, xua đuổi họ, sau những lần bị nhiều người ở nhiều
nơi đuổi xua, chối từ ; họ đến vì ở đây không có hàng rào , trạm kiểm soát ngăn chặn, cấm cản họ
đến gần Chúa; họ đến vì nơi này không ai nhận ra họ là người tội lỗi, có “tội trống” đáng nguyền rủa ; họ đến vì không ai hạch hỏi lý
lịch, công trạng, đức hạnh, vai vế, chức vị, nên thấy mình được tự do và tôn trọng
dù chỉ là phận hèn “vô
danh tiểu tốt” ;
họ đến để tránh những xâm soi, dòm ngó, lườm nguýt chỉ vì nhân thân, gia cảnh
nhiều oan khiên, ngang trái ; họ đến có khi vì tránh búa rìu của thành kiến,
cơ chế, truyền thống, tập tục ; và điểm
chung dễ thấy nơi họ là tất cả đã đến đây
để được thấy, được chia sẻ và đồng cảm với mọi người có mặt nỗi niềm của những đứa
con bệnh tật, yếu đuối, tội lụy đang cần được Thiên Chúa là Cha nhân hậu xót thương
và được anh em mở lòng cảm thông, chia sẻ, cùng “cầu thay nguyện giúp” cho nhau.
Những con người
từ thập phương đã và đang đến đây
với thân phận mỏng dòn, tật bệnh hồn xác, và thiếu thốn mọi sự tất nhiên sẽ không
“khôn ngoan,
khéo léo, chững chạc, qúy phái, tinh tế” như những bậc hiền triết thông thái, những người giầu
nhiều thế lực, ảnh hưởng, hay những chức sắc tài cao đức trọng. Trái lại, họ đầy
những thô thiển trong cung cách, những “thái quá bất cập” trong hành động, và cả những thiếu sót trong phán đoán, tư duy. Nhưng Thiên Chúa không trách
cứ họ điều này, nếu họ đã đến với lòng thành và tất cả con người thật. Vấn đề, nếu có là của con người
chúng ta với nhau, khi Lòng Thương Xót bị chúng ta cho rơi vào một trong những
trường hợp được nêu ra sau đây :
1. Trường hợp
Lòng Thương Xót của Thiên Chúa bị biến thành một món hàng được mặc cả, buôn
bán, đổi chác :
Lòng Thương Xót
của Thiên Chúa là ơn sủng thiêng liêng được ban “nhưng không” cho con người, do lòng thương vô biên của Thiên Chúa.
Vì thế, không có chuyện mặc cả, mua bán,
đổi chác, thương lượng khi con người đến với Lòng Thương Xót. Chẳng hạn phải
nộp vào “thùng
dâng cúng”
vài trăm ngàn hay vài triệu, hoặc nhiều hơn nữa thì Chúa mới ban ơn; hoặc khi được
ơn rồi, thì phải lo trả nợ Chúa, như kiểu đi vay nợ thần thánh để làm ăn. Chúng
ta chẳng lạ gì chuyện đến ngày vía “ông thần, bà chúa” hằng năm, thiên hạ đổ xô đi “vay tiền hoặc hậu tạ” các ông thần, bà chúa, làm sục sôi cả một vùng núi, nơi
các ông thần, bà chúa ngự, bởi có vay tiền thần thánh mới “buôn may bán đắt”, và khi “ăn nên làm ra” rồi thì phải trả tiền lời cho thần thánh gấp năm, mười
lần, nếu không thần thánh sẽ nổi giận làm
cho khánh kiệt , “tan
gia bại sản”,
có khi gặp nạn, chết không kịp ngáp.
Tuyên truyền một Lòng Thương Xót có giá biểu, mặt hàng,
hoá đơn, “vay
vốn, trả lời”
như thế là xúc phạm tình yêu, lòng tốt của Thiên Chúa, và đó là điều phải hết sức
thận trọng khi trình bầy Lòng Thương Xót Chúa, để không ai hiểu sai ơn sủng nhận
được do Lòng Thương Xót Chúa chỉ là món hàng mua được bằng tiền bạc.
Đức Thánh Cha
Phanxicô trong cuộc tiếp kiến chung ngày 30.05.2019 đã nói về : “Ơn Cứu Độ không được mua bán” như sau :
“Không có sự
cạnh tranh để kiếm được hoặc để xứng đáng được ơn huệ của Thiên Chúa. Mọi điều được
trao ban cách nhưng không và đúng lúc. Chúa ban tất cả cách nhưng không, hoàn
toàn nhưng không. Ơn cứu độ không được mua bán : đó là quà tặng hoàn toàn
nhưng không. Trước sự lo lắng của các môn đệ về việc biết trước thời điểm xẩy
ra những điều Chúa Giêsu đã công bố, Người nói với họ : “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã
toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần, khi
Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem,
trong khắp các miền Giuđea, Samaria và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,7-8) (Bản dịch Hồng Thủy, theo
https://vaticannews.va)
2.
Trường hợp Lòng Thương Xót bị đóng khung, giới hạn vào
những phép lạ chữa bệnh thân xác thấy được :
Là con cái, chúng ta có quyền và được mời gọi đến với
Thiên Chúa, Cha chúng ta với tất cả những gì chúng ta “là”,
và chúng ta “có”, nhưng hầu hết chúng ta chỉ đứng dậy đi tìm và đến với
Chúa khi thân xác đã rã rời, yếu nhược, và linh hồn khô khan, tội lỗi.
Như người con hoang đàng trở về với “thân tàn ma dại” sau những ngày dài “túng thiếu, nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng.
Người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy cám heo ăn cho đầy bụng,
nhưng chẳng ai cho”
(Lc 15,14-16), chúng ta cũng trở về với Thiên Chúa như vậy, cùng tình trạng “thân tàn và hồn cũng tàn theo” như người con phung phá. Vì thế, chúng ta cần Chúa chữa
lành không chỉ thân xác mà cả linh hồn, và linh hồn mới là điều Chúa muốn chúng
ta ưu tiên xin Ngài cứu chữa.
Do đó, khi xin Chúa cứu chữa bệnh thân xác, chúng ta cũng
đừng quên xin Chúa đổi mới tâm hồn, và Chúa biết điều nào chúng ta cần hơn, ưu
tiên nào Chúa muốn chúng ta thực hiện trước cho phần rỗi của chính chúng ta. Phần
chúng ta, hãy đón nhận ơn Chúa với tâm tình : “tất cả là hồng ân”.
“Tất cả là hồng
ân” khi Chúa
ban cho ta những ơn ta xin ; “tất cả là hồng ân” khi ta xin ơn, nhưng chưa được ; “tất cả là hồng ân” cả những điều ta không muốn, không xin mà Chúa vẫn cứ
trao, bởi chỉ một mình Chúa biết điều gì cần cho ta “lúc này và ở đây” ; chỉ một mình
cha hiền biết con thơ sẽ phải làm
gì, đi trên con đường nào, nên cần gì, ở thời điểm và cách thế nào. Thiên Chúa
là người cha nhân hậu, là Cha chúng ta, Người biết chúng ta cần gì và căn dặn :
“Trước hết hãy
tìm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ khác, Người
sẽ ban cho”
(Mt 6,33), và để chúng ta tin Thiên Chúa là Đấng quảng đại, rộng lượng thi ân, Đức
Giêsu đã khẳng định với các môn đệ của Ngài : “Thầy bảo anh em : anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm
thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho… Ai trong anh em là một người cha, mà khi
con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó ? Hoặc nó xin trứng lại
cho nó bò cạp ? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái
mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những
kẻ kêu xin Người sao ?”
(Lc 11, 9-13).
Ban Thánh Thần là ban chính tình yêu, sức sống, hạnh
phúc của Thiên Chúa, nói đúng hơn là ban chính Thiên Chúa cho chúng ta, và khi
nhận được Thánh Thần, chúng ta được tràn đầy “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nnhục, nhân hậu, từ tâm,
trung tín, hiền hoà, tiết độ”
(Gl 5,22-23), là hoa thơm trái ngọt của
Thánh Thần, Tình Yêu của Chúa Cha và Chúa
Con.
3. Trường hợp
Lòng Thương Xót bị cắt nghiã như “của cho” không giá trị.
Có nhiều người
hiểu ơn sủng của Lòng Thương Xót như “của cho” vô giá trị, nghiã là cho bừa bãi, cho lung tung. Họ cần
nghe lại lời cảnh cáo của Đức Giêsu khi nói về “của thánh”, tức ân sủng : “Của thánh” đừng quăng cho chó ; ngọc trai, chớ liệng cho
heo, kẻo chúng giầy đạp dưới chân, rồi còn quay lại cắn xé anh em” (Mt 7,6).
Tuy Lòng Thương Xót Chúa được ban “nhưng không”, nhưng không có nghiã người nhận ơn thương xót không
cần quan tâm hay chẳng phải làm gì. Tin Mừng Mátthêu trả lời vấn nạn này khi
ghi lại dụ ngôn “tên
đầy tớ mắc nợ không có lòng thương xót” :
Người ta dẫn đến nhà vua một kẻ mắc nợ vua mười ngàn yến
vàng. Y không có gì để trả, nên tôn chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con, tài sản
mà trả nợ. Bấy giờ tên đầy tớ ấy sắp mình xuống bái lậy : “Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo
trả hết”.
Tôn chủ của tên đầy tớ ấy liền chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ.
Nhưng vừa ra đến ngoài, tên đầy tớ gặp một người đồng bạn, mắc nợ y một trăm
quan tiền. Y liền túm lấy, bóp cổ mà bảo : “Trả nợ cho tao !”. Bấy giờ người đồng bạn sấp mình xuống năn nỉ : “Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả
anh”. Nhưng y
không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ. Thấy sự việc như vậy,
các đồng bạn của y buồn lắm, mới đi trình bầy với tôn chủ đầu đuôi câu chuyện.
Bấy giờ, tôn chủ cho đòi y đến và bảo : “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi,
vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn,
như chính ta đã thương xót ngươi sao ?”. Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ,
cho đến ngày y trả hết nợ cho ông. Ấy vậy, Cha trên trời cũng sẽ đối xử với anh
em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mt 18,24-35).
Qủa thực, không còn gì rõ hơn điều kiện để nhận được Lòng
Thương Xót của Chúa, và chúng ta không nghi ngờ gì về bổn phận thương xót chúng
ta phải làm cho nhau, nếu muốn được Thiên Chúa ban ơn thương xót, bởi “Phúc cho ai thương xót người, vì họ sẽ được Thiên Chúa
xót thương”
(Mt 5,7).
4.
Trường hợp niềm tín thác vào Lòng Thương Xót Chúa bị
biến thành mê tín.
Ranh giới giữa niềm tin và mê tín thường rất mong
manh, và niềm tin dễ bị mê tín lấn lướt trong nhiều trường hợp, nhất là khi niềm
tin chưa được trui luyện, và trưởng thành.
Đây cũng là nỗi lo hàng đầu của các Đấng Bậc có trách
nhiệm gìn giữ kho tàng đức tin.
Người viết xin
trích lại một phần của bài Mê Tín đã viết không lâu, để chia sẻ với qúy Bạn về
những khác biệt giữa đức tin còn gọi là
niềm tin và mê tín.
a. Niềm tin
tôn giáo đòi hiểu biết, trong khi mê tín là kết qủa của mê muội :
Người tín hữu theo một tôn giáo là dấn thân tin một Đấng
được tôn giáo ấy giới thiệu, loan truyền, làm chứng, nên không ai có thể tin nếu
không biết về Đấng mình tin, và chỉ tin khi lý trí người tín hữu chấp nhận những
điều nghe kể về Đấng ấy là đáng tin, những chứng cứ về Đấng ấy là khả tín,
nghiã là không phi lý, hay ngược lại suy tư, luận lý tự nhiên, bình thường.
Mê tín thì ngược lại, khi người ta không biết gì, hoặc
biết rất ít, rất mơ hồ về người và điều mình tin, nhất là những điều này không
có nền tảng để có thể tin đươc, vì phi lý
và tự thân mâu thuẫn.
b. Niềm tin
tôn giáo đòi yêu mến, tin tưởng, khác với mê tín mang nặng lo âu, sợ hãi :
Đức Tin luôn mang lại niềm vui, vì khi tin, ngừơi tín
hữu hay tín đồ hạnh phúc vì biết mình được yêu bởi Đấng mình đã tin và yêu mến.
Không ai có thể tin người mình không yêu mến, cũng như không ai có thể yêu mến
người mình không tin. Tin và yêu sánh đôi với nhau, nên có tin là có yêu, có yêu
mới tin được, và người tin luôn là người hạnh phúc vì yêu và được yêu.
Niềm tin tôn giáo là gắn bó thiết thân giữa cá nhân mỗi
người với Đấng siêu nhiên. Gắn bó thiết thân ấy chính là tình yêu và lòng tin tưởng,
nên niềm tin không bao giờ sợ hãi, khác với mê tín đầy ắp lo âu, sợ sệt, vì chỉ
có đe dọa, và vắng bóng tín nhiệm, yêu thương.
Nhưng tại sao có sự khác biệt này giữa người có đức
tin và người mê tín ?
Thưa vì người có đức tin tin vào Đấng thương mình, tin
ở Đấng có quyền năng nhưng nhân hậu luôn cứu giúp mình, trong khi người mê tín
tin vì sợ hãi một sức mạnh không tên, một thế lực vô danh, một khuôn mặt bí ẩn
luôn soi mói, rình rập, một bàn tay uy lực, nhưng tàn ác, nên tin của mê tín là
tin vì bị đe dọa, tin vì sợ tai hoạ, tin để tránh bị trừng phạt, báo oán, chứ không tin vì yêu, tin vì
hy vọng, tin vì ký thác vào tình thương, và lòng nhân hậu của Đấng quyền năng,
nhưng tốt lành, nhân ái, như người tín Kitô
hữu tin Đức Giêsu là Thiên Chúa giầu lòng thương xót, chậm bất bình và rất
đỗi khoan dung, và tín đồ Phật giáo tin ở Đức Thích Ca Mâu Ni là người đắc đạo
và đầy lòng từ bi, hỉ xả, thương yêu chúng sinh.
c.
Niềm tin tôn giáo không mua bán, trao đổi bằng vật chất
như mê tín :
Nói đến niềm tin, đức tin, tôn giáo nào cũng trân trọng
như giá trị tuyệt đối linh thiêng, nên không thể dùng vật chất để trao đổi, mua
bán niềm tin, đức tin. Người tín hữu, tín đồ tin yêu Đấng giáo chủ của mình với
tâm hồn trong sáng, với trái tim tinh ròng nồng nàn, và sự gắn bó giữa tín đồ,
tín hữu với Đấng thiêng liêng là một tương quan nội tâm, thánh thiện.
Vì thế, khi có hoạt động “buôn thần bán thánh”, tức trao đổi bằng vật chất như tiền bạc, của cải giữa
thần thánh và con người thì đức tin không còn, và niềm tin biến thành mê tín, bởi
ơn lành, phúc trọng nhận được từ Đấng thiêng liêng là ơn được ban “nhưng không”, nghiã là ban vô điều kiện, khi con người cầu xin Đấng
mình tin yêu với lòng thành.
Khác với mê tín, ở đó, người mê tín đi mua sự may mắn,
trao đổi với Sức Mạnh huyền bí bằng tiền bạc, của cải để thoát khỏi tai họa,
nguy hiểm nào đó, và đạt được điều mong ước. Vì thế, bất cứ hành vi mê tín nào
cũng nại đến vật chất, cũng đòi phải trả tiền, trả công, trả ơn quyền lực huyền
bí qua người trung gian. Đó là lý do người ta lợi dụng nhiều người nhẹ dạ, cả
tin để lừa tiền, gạt của, khi tự cho mình là người biết được ý Trời, nghe được
tiếng của thần thánh, khi có người đến hỏi về tương lai, vận mệnh, hoặc xin ơn
này, ơn nọ.
d.
Niềm tin là chọn lựa tự do của người trưởng thành,
không nhẹ da, cả tin như mê tín :
Đức tin là sự sống của người tín hữu và đức tin ấy, niềm
tin tôn giáo ấy đi với người tín hữu, tín đồ suốt hành trình cuộc đời của họ. Vì
thế, đức tin lớn lên với thăng trầm của cuộc sống, với niềm vui, nỗi buồn từng
ngày, với gian khó, thử thách của hoàn cảnh, và tương quan ở mọi chiều kích.
Vì thế, sẽ không có đức tin nhẹ tênh, dễ dãi, nhưng đức
tin nào cũng trầy trụa trải nghiệm vất vả, hy sinh ; niềm tin nào cũng rướm
máu vì vượt qua nhiều chướng ngại thách đố, nên người tin sẽ là người trưởng thành,
vì tự nguyện chọn lựa, tự ý dấn thân, tự do lên đường, và không hề bị ai dụ dỗ,
áp lực. Đây chính là sự khác biệt giữa người tín hữu, tín đồ và người mê tín.
Người có đức tin là người trrưởng thành khi đóng chặt niềm tin của mình vào Đấng
là Sự Thật, và là Đường, trong khi người mê tín không biết ai thật, giả, điều gì
đáng tin hay không đáng tin, nhưng cả tin, nhẹ dạ, để mình bị rủ rê, mua chuộc,
tán tỉnh đi vào đường mê tín.
e.
Niềm tin mang tính hiệp thông, khác với mê tín là hành
vi cá nhân và biệt lập :
Đức Tin của tôn giáo chính danh nào, ngoài tính cá nhân,
cũng mang tính cộng đoàn hiệp thông, nghiã là cùng tin với những người tin khác,
cùng chia sẻ niềm tin với cộng đồng, “đồng lao cộng khổ” vì lợi ích chung, sẵn sàng hy sinh cho hạnh phúc của
mọi người, và tương thân tương trợ trên hành trình đức tin.
Khác với mê tín luôn là hành vi cá nhân, biệt lập, không
dính dáng, quan tâm đến người khác, không can dự đến cộng đồng xã hội, vì chỉ
nhắm mục đích phục vụ lợi ích cá nhân, tìm giải quyết nhu cầu riêng tư, nên mê
tín luôn mang tính ích kỷ, đóng khung, khép kín, hạn hẹp, biệt lập, nhất là không
minh bạch và không thể chia sẻ, hiệp thông.
f.
Niềm tin làm con người hạnh phúc vì được yêu và bình
an ; mê tín làm con người bất hạnh vì bị đe dọa và sợ hãi :
Muốn biết một người có đức tin đích thực, có niềm tin
chân chính, chúng ta chỉ cần nhìn xem họ có hạnh phúc, bình an hay không ?
Người có đức tin không thể là người buồn sầu, thất vọng, chán đời, không muốn sống,
vì đức tin là nguồn vui, ơn bình an, là lẽ sống cho đời người hạnh phúc. Người
tín hữu Thiên Chúa giáo tìm đến Thiên Chúa là niềm vui của họ, vì Thiên Chúa yêu
thương và cứu độ họ, vì Thiên Chúa nhân hậu và bao dung tha thứ cho họ mọi lỗi
lầm, vì Thiên Chúa là gia nghiệp, phần thưởng, thiên đàng của họ ; cũng như
người con Phật tìm đến cửa Phật để được thư thái, bình an.
Khác hẳn niềm
tin đem lại bình an nội tâm, và niềm vui sống với mọi người, với cuộc đời, mê tín
chỉ đem lại bất hạnh, vì triền miên bị những đe dọa của tai ương đeo bám, bị thần
thánh đe loi trừng phạt, bị vong hồn từ bao đời oan nghiệt đòi nợ, trả thù, báo
oán. Người mê tín không khác người nghiện xì ke, ma túy, khi hoàn toàn lệ thuộc
vào những “phán
quyết tào lao, đồng bóng”
của người tự nhận là sứ giả, phát ngôn của thần thánh. Họ mất hẳn tự tin, vì không
còn bản lãnh và tinh thần độc lập, tự quyết ; họ tha hoá tận cùng khi không
còn ý chí quyết định và họ bất hạnh hơn tất cả những người bất hạnh khác,
vì phải sống trong đe dọa, sợ hãi, lo âu. Những lo sợ này do người trung gian
giữa “thần thánh” và họ tạo ra để giữ họ làm con ti ; những đe dọa
làm hoang mang, hỏang lọan, mất tinh thần là khí giới “thần sầu qủy khốc” và độc chiêu được những tay lừa đảo, “buôn thần bán thánh” sử dụng để làm tiền. Và những người trót rơi vào vực
thẳm mê tín đã vô phúc trở thành nạn nhân đáng thương của những chiêu trò bịp bợm
tinh vi và phi nhân luôn tìm đánh vào những người có tâm lý non nớt, bất ổn
5. Trường hợp thừa
tác viên được quần chúng “phong thánh, phong thần” đến độ được coi là “người làm được các phép lạ, mà không cần Thiên Chúa”.
Nếu chúng ta nhận được ơn lạ cứu chữa phần xác, phần hồn
khi chạy đến Lòng Thương Xót Chúa, đó chính là Thiên Chúa ban cho chúng ta qua
trung gian những người Chúa tuyển chọn và ban cho đặc sủng để phục vụ dân Chúa.
Đây là điều chúng ta phải nằm lòng, nếu không, chúng ta sẽ rơi vào tình trạng mất
đức tin ở Thiên Chuá, vì những lý do sau đây :
a.
Vì ma qủy cũng làm được các phép lạ.
Bởi gốc gác của ma qủy là thiên thần, nên mang bản tính
thiêng liêng, mà loài thiêng liêng thì làm được những sự lạ, vì không bị lệ thuộc
thời gian và không gian, chưa kể Thiên Chúa, dù bị Luxiphe và một số thiên thần
phản nghịch vẫn không hủy bỏ bản tính thiêng liêng thuộc hàng “thiên thần” của chúng như thánh Phaolô đã viết : “Lạ gì đâu ! Vì chính Xatan cũng đội lốt thiên thần
sáng láng”
(2 Cr 11,14).
Tin Mừng Mátthêu trong trình thuật “Đức Giêsu chịu cám dỗ” đã ghi rõ những phép lạ của ma qủy làm khi chúng đến
cám dỗ Ngài trong hoang địa : “Ma qủy đem Người đến thành thánh và đặt Người trên nóc
đền thờ…”
(Mt 4,6) ; “Qủy
lại đem Người lên một ngọn núi rất cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các nước
thế gian và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy” (Mt 4,8).
b.
Các phù
thủy cũng làm được những điều lạ.
Sách Công Vụ
Tông Đồ đã kể về phù thủy tên Simôn : “Trong thành ấy, có một người tên là Simôn, vốn dùng phù
phép làm cho dân Samari kinh ngạc. Ông ta xưng mình là một nhân vật quan trọng
và mọi người từ nhỏ đến lớn đều chú ý đến ông. Họ nói : “Ông này là Quyền Năng của Thiên Chúa, Quyền Năng được
gọi là Vĩ Đại”.
“Họ chú ý đến
ông, vì từ khá lâu ông đã dùng phù phép làm cho họ kinh ngạc” (Cv 8,9-11).
Trái với ma qủy
và phù thủy, các tông đồ luôn nhân danh Đức Giêsu khi làm phép lạ, như lời căn
dặn của Đức Giêsu khi Ngài sai các vị đi rao giảng Tin Mừng : “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng
cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ ; còn ai không
tin, thì sẽ bị kết án. Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng
tin : nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được qủy, sẽ nói được những tiếng lạ. Họ sẽ
cầm được rắn, và dù có uống nhầm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt
tay trên những người bệnh, thì những người
này sẽ được mạnh khoẻ.”
(Mc 16,15-18).
Sách Công Vụ Tông Đồ kể Phêrô đã chữa một người
què : “Một
hôm, ông Phêrô và ông Gioan lên Đền Thờ, vào buổi cầu nguyện giờ thứ chín. Khi ấy
người ta khiêng đến một người què từ khi lọt lòng mẹ… Vừa thấy ông Phêrô và ông
Gioan sắp vào Đền Thờ, anh liền xin bố thí. Hai ông nhìn thẳng vào anh, và ông
Phêrô nói : “Anh
nhìn chúng tôi đây !”
Anh chăm chú nhìn hai ông, tưởng rằng sẽ được cái gì. Bấy giờ ông Phêrô nói :
“Vàng bạc thì
tôi không có, nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây : Nhân danh Đức Giêsu Kitô,
người làng Nadarét, anh đứng dậy mà đi ! Rồi ông nắm chặt lấy tay mặt anh,
kéo anh trỗi dậy. Lập tức bàn chân và xương mắt cá của anh trở nên cứng cáp.
Anh đứng phắt dậy, đi lại được, rồi cùng với hai ông, anh vào Đền Thờ, vừa đi vừa
nhẩy nhót và ca tụng Thiên Chúa. Toàn dân thấy anh đi lại và ca tụng Thiên Chúa” (Cv 3,1-9).
Tông đồ Phêrô đã nhân danh Đức Giêsu Kitô để làm phép
lạ. Điều đó có nghiã, không phải Phêrô làm phép lạ chữa lành cho người què, nhưng
chính Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa mới là Đấng ban ơn chữa lành, cũng như ban các
ơn thiêng liêng đổi mới, thánh hoá linh hồn cho người tin ở Ngài.
Vì thế, trước ơn lạ nhận được có thể từ việc đặt tay cầu
nguyện, chúng ta tin Thiên Chúa ban đặc sủng cho thừa tác viên của Ngài để phục
vụ lợi ích của cộng đoàn, và Ngài ban cho những người Ngài muốn.
Như Chúa Thánh Thần là Gió : Gió đến từ đâu, đi đâu,
ở lại nơi nào thì tùy Gió, nào có ai biết và ngăn cản được Gió bao giờ ? Ơn
sủng của Thiên Chúa cũng vậy : hoàn toàn thuộc quyền tự do của Ngài khi Ngài
chọn người Ngài muốn để phân phát ơn của Ngài cho mọi người, nên không lạ gì
khi có người được Thiên Chúa ban cho ơn chữa bệnh, ơn nói trước những điều sẽ xẩy
ra, như thánh Phaolô đã khẳng định :
“Có nhiều đặc
sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng
chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa
làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ ra nơi mỗi người một cách, là vì ích
chung. Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dậy, người thì được
Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bầy. Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng
tin ; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để
chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri ;
kẻ thì được ơn phân định thần khí ; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng
lạ, kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ. Nhưng chính Thần Khí duy
nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người một cách, tùy
theo ý của Người”
(1 Cr 12,4-11).
Cũng trong thư gửi giáo đoàn Côrintô, thánh Phaolô qủa
quyết tính chủ động của Thiên Chúa trong tất cả mọi công trình : “Vậy Apôlô là gì ? Phaolô là gì ? Đó là những
tôi tớ đã giúp cho anh em có đức tin, mỗi người đã làm theo khả năng Thiên Chúa
ban. Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. Vì thế, kẻ
trồng hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên mới
đáng kể. Kẻ trồng, người tưới đều như nhau, nhưng ai nấy sẽ được thù lao theo công
khó của mình. Thật vậy, chúng tôi là cộng sự viên của Thiên Chúa. Anh em là cánh
đồng của Thiên Chúa, là ngôi nhà Thiên Chúa xây lên” (1 Cr 3,5-9).
6.
Trường hợp không nhắm đến lợi ích các linh hồn :
Khi chọn các môn đệ bên biển hồ Galilê, Đức Giêsu đã
cho các ông biết mục đích của việc đi theo Ngài : “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những
kẻ lưới người như lưới cá”
(Mt 4,19) ; ở với các ông, Ngài dậy các ông lòng khao khát các linh hồn,
khi tỏ ra ý muốn không để mất một người
nào Chúa Cha đã trao ban cho Ngài (Ga 17,12), nhưng tìm đưa tất cả “về một ràn … Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử
(Ga 10,16), và nếu chẳng may bị lạc mất
con chiên nào, Ngài quyết “tìm
cho kỳ được”
(Lc 15,4.8) ; đặc biệt khi sai các môn đệ đi truyền giáo, Ngài xác định mục tiêu :
“Anh em hãy đi
và làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy” (Mt 28,19). “Muôn dân” ý nói hết mọi người ở mọi nơi, mọi thời, không loại
trừ ai, như thị kiến của tông đồ Phêrô : “Đang khi người ta dọn bữa, thì ông xuất thần. Ông thấy
trời mở ra và một vật gì sà xuống, trông như một tấm khăn lớn buộc bốn góc, đang được thả xuống đất. Trong đó
có mọi giống vật bốn chân và rắn rết sống
trên đất, cùng mọi thứ chim trời. Có tiếng phán bảo ông : “Phêrô, đứng dậy, làm thịt mà ăn !” Ông Phêrô thưa : “Lậy Chúa, không thể được, vì không bao giờ con ăn những
gì ô uế, và không thanh sạch ». Lại có tiếng phán bảo ông lần thứ
hai : “Những
gì Thiên Chúa đã tuyên bố là thanh sạch, thì ngươi chớ gọi là ô uế” (Cv 10,10-15).
Như thế, các linh hồn phải là ưu tiên thứ nhất trong công
cuộc rao giảng Tin Mừng, và như người đi buôn với vốn liếng của ông chủ, mỗi người
chúng ta với ơn của bí tích rửa tội đều có sứ vụ “làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Đức Giêsu” tùy theo vốn liếng được Chúa trao (x.Mt 25,14-30), nếu
không chúng ta sẽ bị khiển trách vì đã sống như “người đầy tớ tồi tệ và biếng nhác” (Mt 25,26).
Tâm tình chia sẻ với Bạn đã qúa dài !
Để kết thúc, lại một lần nữa tôi minh định không cho
phép mình phê phán bất cứ ai quanh vụ việc Giáo Điểm Tin Mừng này, vì tôi không
có khả năng và thẩm quyền. Tôi chỉ dám xin hiệp ý với Bạn cầu nguyện cho mọi người, mọi thành phần, mọi phẩm trật trong
Giáo Hội, đặc biệt cầu nguyện cho cha Long, cho mọi người thiện chí, bất luận lương,
giáo hay “vô
thần” đến tìm
Thiên Chúa của Lòng Thương Xót ở Giáo Điểm Tin Mừng, cho những người ủng hộ cũng
như những anh em chống đối, lên án cha Long được tràn đầy ơn Thánh Thần, để với
“ơn cao trọng
nhất” là Đức Ái
(1 Cr 12,31), tất cả chúng ta, mỗi người ở vị thế, vai trò, khả năng, trách nhiệm
của mình biết “nhẫn
nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc .., không
tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù” (1 Cr 13,4-5) để Đức Giêsu được lớn lên, và nổi bật
(Ga 3,30), bởi tất cả chúng ta chỉ là khí cụ trong tay Ngài ; biết “không vui khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều
chân thật”
(1 Cr 13,6), để cùng ngồi lại và “nhẹ nhàng” giúp nhau nhận ra điều sai phải sửa, khiếm khuyết cần
bổ túc, điều tốt lành nên phát huy, bởi là con người, có ai hoàn hảo, thánh thiện,
không tì ố, như Đức Giêsu đã thách thức các ông Kinh Sư và Biệt Phái đang hằm hằm,
căng thẳng, khẩn trương, tay cầm sẵn những cục đá to đùng, bén nhọn chực chờ vùi
giập không thương tiếc thân liễu mỏng manh của người phụ nữ ngoại tình bị bắt qủa
tang: “Ai
trong các ông thấy mình không có tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8,7) ; sau cùng với ơn cao trọng là Đức Ái,
mỗi người trong Giáo Hội, ở mỗi góc độ riêng của bổn phận sẽ “tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu
đựng tất cả”
(1 Cr 13,7), để bảo đảm sự hiệp nhất, hiệp
thông trong Đức Giêsu là căn tính của Thân Thể mầu nhiệm là Giáo Hội, đồng
thời để “Lửa canh tân và cứu độ” của Chúa Thánh Thần không bị giập tắt cách oan uổng.
Ước gì Tình yêu Đức Kitô không chỉ “thúc bách chúng ta” (2 Cr 5,14) mà còn liên kết chúng ta nên một (x.Ga
17,22-23), để Thiên Chúa được vinh danh và mọi nguời được ơn cứu rỗi.
Jorathe
Nắng Tím