Tìm kiếm Blog này

Thứ Ba, 4 tháng 2, 2020

MUỐI VÀ ĐÈN



Suy Niệm TIN MỪNG CHÚA NHẬT 5, Thường Niên, Năm A
Trong Tin Mừng Mátthêu, tiếp liền bài giảng về “Tám Mối Phúc Thật”, Đức Giêsu đưa ra hai so sánh rất ấn tượng về sứ vụ của người môn đệ Ngài : Muối và Ánh Sáng cho đời :
“Chính anh em là muối cho đời… Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,13-14).
Lấy muối và ánh sáng để nói về sứ mạng cũng như phẩm chất của người tín hữu, Đức Giêsu đã tỏ ra rất gần gũi với sinh hoạt đời thường :
Ngài biết muối cần thiết cho lương thực, và lương thưc cần cho con người để sống, nhưng lương thực như thịt, cá mà ươn xình, lạt lẽo, vì thiếu mắm muối thì chẳng ai muốn ăn ; tôm kho, mực xào, canh cải mà quên nêm muối, thì chẳng ai nuốt vào vì vô vị, trừ số ít người bệnh bất đắc dĩ phải ăn, vì thuộc diện kiêng cữ đồ mặn.  
Muối trở thành chất không thể thiếu làm cá tôm không ươn, làm thức ăn mặn mà, làm cho bữa ăn ngon, làm vui thú khẩu vị thực khách. Nhờ muối mà đồ ăn ngon, nhờ muối mà người ăn ngon, nhờ muối mà bàn ăn vui cười, rộn rã.
Dùng muối là hình ảnh của người môn đệ, Đức Giêsu muốn nhấn mạnh tính cách kín đáo, âm thầm, nhỏ bé, nhưng quan trọng trong vai trò “hé lộ” sự hiện diện của Thiên Chúa trong công trình của Ngài cho mọi người, và tế nhị trình bày cho người khác kỳ công của Ngài qua những gì bé nhỏ nơi mình : nhỏ như muối, bé như muối.    
Một nụ cười khả ái, thân thiện, một ánh mắt trìu mến, một nắm tay yêu thương, như những hạt muối mặn sẽ làm cho cuộc đời của người đang chán đời, không muốn sống đổi sang mầu hồng hạnh phúc, và mầu xanh hy vọng, thay cho mầu đen chết chóc, tuyệt vọng trước đó ; một chia sẻ ngắn gọn, nhưng chất chứa lòng tôn trọng, cảm thông, như hạt muối nhỏ đủ làm mặn nồng tình yêu đã từ lâu lạnh lùng, băng giá ; chỉ một cử chỉ ân cần phục vụ như hạt muối nhỏ cũng đủ làm thay đổi cái nhìn về cuộc sống, và hồi sinh đời sống tưởng đã héo úa, tàn tạ.
Cứ quan sát các bà mẹ trong bếp khi chuẩn bị bữa ăn cho gia đình : bà đã mua thịt, cá, rau củ đầy đủ, nhưng không bao giờ trong bếp nhà bà thiếu muối, vì bà biết tuy không ai nhắc đến muối khi mâm cơm ngon được dọn lên, không ai biết đến hạt muối tròn, méo thế nào, cũng chẳng ai quan tâm phẩm chất và tầm quan trọng của muối, và tất nhiên chẳng có người nào bận tâm khen muối ngon, muối thơm, muối đẹp như khen thịt mềm, cá ngọt, rau tươi khi ăn, nhưng riêng bà mẹ nấu ăn thì kín đáo trân trọng hũ muối luôn phải đầy, vì bà biết : thiếu muối , bà không thể nấu được bữa cơm ngon cho cả nhà.
Cũng như bà mẹ biết muối cần thiết, Thiên Chúa biết sứ mệnh làm thi vị cuộc sống của người môn đệ, khi người môn đệ bằng thái độ bé nhỏ và cung cách tế nhị, dễ thương cho mọi người nhận ra công trình tốt đẹp của Thiên Chúa đã được thực hiện vì hạnh phúc của họ.
Thực vậy, là muối, người môn đệ biết mình không làm nên công trình, nhưng có sứ mạng nói cho mọi người biết có công trình, và công trình ấy là do Thiên Chúa thực hiện vì yêu thương con người, cũng như muối không là thịt, cá, rau củ, nhưng đem lại vị ngon cho lương thực, đem lại thi vị là vinh quang cho công trình của Thiên Chúa giữa nhân loại.     
Cũng vậy, ánh sáng mà Đức Giêsu muốn người tín hữu phải trở nên chính là ánh sáng của “đèn được đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà” (Mt 5,15). Thiên Chúa muốn ánh sáng chúng ta là cũng phải là ánh sáng của khiêm tốn, bé nhỏ như ánh sáng của cây diêm tìm hướng đi trong rừng khuya để thoát hiểm, ánh sáng của ngọn nến khi bị cúp điện, để không ai trong nhà bị vấp té, ánh sáng của  chiếc đèn dầu trên bờ đê, để không lỡ chân lạc bước giữa ruộng đồng khuya khoắt.
Ánh sáng ấy là từng ngày của cuộc sống làm chứng Thiên Chúa yêu thương mọi người ; là từng đóng góp xây dựng Nhiệm Thể Đức Kitô là Hội Thánh ; là từng giọt mồ hôi trên hành trình đến với những người anh em nghèo khó và hết lòng yêu thương, phục vụ họ ; là tinh thần quên mình vì tha nhân và dấn thân mưu tìm hạnh phúc cho mọi người ; là thái độ hiền lành, chịu đựng khi bị hiểu lầm, oan uổng, xỉ nhục, chụp mũ, lên án bất công.
Nhờ ý thức mình chỉ là ánh sáng của đèn, mà chúng ta không ảo tưởng và kiêu căng nghĩ mình là “Ánh sáng muôn dân”, “Ánh sáng cho nhân loại” (Ga 1,3), không lầm tường mình ngang hàng với Ngôi Lời “là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,9) ; nhờ biết đời mình còn là những mảng tối cần được Thiên Chúa là Ánh sáng lấy đi, mà chúng ta không hoang tưởng cho  mình có thể thay Thiên Chúa làm ánh sáng xua đuổi bóng tối. Trái lại, chúng ta phải trở nên như Gioan Tẩy Giả đã được  Gioan Tông Đồ mô tả : “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng” (Ga 1,6-8).
Bởi khi làm chứng về ánh sáng, chính ánh sáng sẽ chiếu soi ; khi làm chứng về ánh sáng, chính ánh sáng sẽ xua đuổi bóng tối. Cũng như khi rao giảng Tin Mừng, thì chính Tin Mừng sẽ hoán cải lòng người, chứ không phải chúng ta hoán cải ; khi loan báo Lời Chúa, thì chính Lời Chúa sẽ đổi mới tâm hồn người lắng nghe, chứ chúng ta không đổi mới được họ ; khi thi hành tác vụ ban ơn thánh hoá, thì chính Thiên Chúa thánh hoá  người tin ở Ngài, chứ chúng ta không thánh hoá được ai, vì chúng ta cũng là người tội lỗi, bất xứng, và chỉ là khí cụ của Thiên Chúa, chứng nhân của Ngài, “đầy tớ vô dụng phải làm việc của ông chủ trao phó”.
Chẳng thế mà thánh Phaolô đã thú nhận : “Khi đế với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy. Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa” (1 Cr 2,3-4). Nói cách khác, khi loan báo Mầu Nhiệm của Thiên Chúa, thánh tông đồ dân ngoại đã chỉ làm chứng, và dựa hoàn toàn vào quyền năng Thiên Chúa, chứ không dựa vào “lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu” (1 Cr 2,1), bởi thánh tông đồ ý thức rõ rệt : “Kẻ trồng, hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên mới đáng kể” (1 Cr 3,7).
Vâng, ánh sáng mà Thiên Chúa muốn chúng ta là, sẽ không là ánh sáng làm chói mắt của kiêu căng, ánh sáng thiêu đốt của lửa bạo lực, ánh sáng làm nhức đầu của tước vị, danh dự cá nhân, và ảnh hưởng, quyền lợi phe nhóm, hay ánh sáng làm kinh hãi, khiếp sợ những người nghèo hèn, bé nhỏ, không tiếng nói, nhưng là ánh sáng “sẽ bừng lên như rạng đông” khi ta “chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ ; thấy mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục” (Is 58,7-8), như ngôn sứ Isaia đã công bố trong bài đọc thứ nhất.
Xin cho chúng con khiêm tốn khi biết mình phải trở nên Muối và Đèn Sáng : muối làm cho lương thực mặn mà, ngon lành, nhưng không thay thế lương thực khi chấp nhận được quên đi, và nhận phần đóng góp rất bé nhỏ của mình cho bữa ăn, bởi khi đòi phải đạt số lượng lớn, muối sẽ làm cháy cổ mọi người, vì đồ ăn sẽ mặn chát. Cũng vậy, đèn sáng làm cho mọi người nhìn thấy nhau, và chiêm ngưỡng công trình tuyệt vời của Thiên Chúa, để nhận ra Thiên Chúa, nhưng đèn sáng không làm chói mắt, hoa mắt, mù loà mắt ai, khi ngạo mạn muốn chiếm chỗ của “Ánh Sáng thật, Ánh Sáng chiếu soi muôn dân” là Chúa, nhưng như người đầy tớ vô dụng, chúng con vâng lời và tận tụy làm những gì Chúa muốn trong thân phận bé nhỏ, yếu đuối của mình, và dù thiếu kinh nghiệm, hậu đậu, vụng về, chúng con vẫn tin : chính trong những thiếu sót, bất toàn, mà Chúa được vinh danh ; chính khi chúng con nhỏ đi như hạt muối, Chúa được lớn lên hiển trị.
Sau hết càng bé nhỏ, bất xứng như hạt muối bé, như ánh đèn nhỏ, chúng con và mọi người càng nhận ra “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn, và lòng thương xót Chúa, từ đời nọ đến đời kia hằng bao bọc những ai kính sợ Người” (Lc 1,49-50).
Jorathe Nắng Tím  


0 nhận xét: