Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật 4, Phục Sinh, Năm A
Hai
hình ảnh không thể thiếu về người chăn chiên được Đức Giêsu mô tả trong Tin Mừng
Gioan về Mục Tử nhân lành là “Tiếng gọi chiên”, và “Cửa cho chiên ra vào” (Ga 10,7), để làm nổi bật sứ vụ của người
chăn chiên là “gọi tên từng con và dẫn chúng ra” đến đồng cỏ xanh, suối nước
trong “để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,3.10).
Quan
sát người chăn chiên với đoàn chiên của anh: Anh không ngớt gọi từng con, và nhắc
nhớ, khuyến khích, động viên chúng. Làm
như chúng hiểu anh nói gì, dặn dò gì, nên khi người lạ nói, người lạ lên tiếng
thay anh, chúng không hiểu và ngơ ngác nhìn nhau tỏ vẻ nghi ngờ, sợ hãi, vì “chúng
nhận biết tiếng của anh. Chúng không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì
chúng không nhận biết tiếng người lạ” (Ga 10,4-5).
Khi ra vào chuồng, đoàn chiên cũng chờ tiếng nói của mục
tử, và tuyệt đối không ra khỏi chuồng khi không có mặt người chăn giữ chúng, vì
chúng sợ bị kẻ trộm bắt đi. Chúng cũng không liều lĩnh trốn khỏi chuồng đi lang
thang một mình trong rừng, vì biết có nhiều sói dữ rình rập, chực chờ vồ lấy
chúng, và ăn thịt (x.Ga 10,12).
Với hình ảnh “tiếng nói của mục tử”, Đức Giêsu nhắc đến
sứ vụ của Ngài là Ngôi Lời của Thiên Chúa, là Tiếng Nói của Thiên Chúa với nhân
loại, cũng như toàn bộ Cựu Ước là lịch sử “Thiên Chúa nói với con người”, và
con người tin vào Ngài nhờ lắng nghe tiếng Ngài.
Như thế, Thiên Chúa đã là người đi bước trước đến với
con người bằng “mở lời” nói với con người, như trực tiếp nói với Ápraham, Môsê,
và gián tiếp qua các ngôn sứ nói với dân Ngài trong Cựu Ước. Cũng vậy, trong
Tân Ước, Thiên Chúa đã sai sứ thần Gabrien mở lời với Đức Maria ở ngày Truyền Tin,
và chính Đức Giêsu đã trực tiếp mở lời kêu gọi các môn đệ bên bờ hồ Galilê: “Các
anh hãy theo tôi!” (Mt 4,19).
Thiên Chúa luôn mở lời trước, đề nghị trước, mời gọi
trước, và dành cho con người toàn quyền trả lời đồng ý hay không đồng ý, chấp
thuận hay khước từ, với tất cả tự do được Thiên Chúa tuyệt đối tôn trọng. Đó là
lý do có rất nhiều người đã được Đức Gêsu “mở lời” mời làm môn đệ, nhiều người
được gọi theo Ngài, nhưng con số đáp trả rất ít, số người trả lời tích cực
không nhiều, như thánh Gioan đã viết: “Ngôi Lời là Thiên Chúa” (Ga 1,1) “Ngôi Lời
là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian, và chiếu soi mọi người. Người ở giữa
thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người
đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,10-11).
Tiếp đến, Đức Giêsu chọn hình ảnh Cửa chuồng chiên,
bên cạnh hình ảnh Tiếng Gọi khi nói về người mục tử nhân lành, vì đoàn chiên cần
chuồng để được an toàn, cần nơi có cửa nẻo khép kín, có hàng rào ngăn chặn để người
lạ, kẻ trộm, sói dữ không thể đột nhập, xâm phạm, phá hoại, cắn giết. Và chỉ
khi được ở trong chuồng có cửa khép cẩn thận, có chủ chăn trông nom, đoàn chiên
mới thoải mái, bình an.
Là Cửa, người chăn chiên vừa thi hành trách nhiệm gìn
giữ, che chở, vừa thực hiện bổn phận giải phóng, khi tập cho đoàn chiên trưởng
thành với ý thức tự do, vì chuồng chiên không là trại giam, và người gác cửa
chuồng chiên không làm công việc của công an gác cổng nhà tù, bởi chiên có quyền
đi ra đi vào: đi vào để ngủ nghỉ an toàn, để khỏi bị mưa ướt, sương lạnh, để kẻ
trộm và sói dữ không lợi dụng sơ hở, trống trải mà “giết hại, phá hủy”, cướp đi
mạng sống, đồng thời đi ra để “gặp được đồng cỏ” (Ga 10,9), hầu được “sống và sống
dồi dào” (Ga 10,9-10).
Thực vậy, Đức Giêsu nhận mình là Mục Tử nhân lành: mục
tử biết nói với chiên, và chiên lắng nghe tiếng Mục Tử (x. Ga 10,3). Nói điều
này, Đức Giêsu nhấn mạnh tầm quan trọng của tiếng nói, bởi không tiếng nói giữa
mục tử và đoàn chiên, không trao đổi giữa chúa chiên và con chiên, không đối
thoại giữa người chăn dắt và đám đông được chăn dắt, thì không thể có đoàn
chiên đúng nghiã, không thể có chuồng chiên an bình, không đấu đá, và không thể
có đoàn thể chiên, cộng đoàn chiên “được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Nhưng ai phải nói với ai, và ai giữ phần quyết định
thành - bại trong đối thoại, để “mục tử nghe được tiếng chiên, và chiên nghe biết
tiếng mục tử”, mà không ngược lại: chủ chiên và chiên, cả hai không ai chịu
nghe ai”?
Hỏi tức trả lời, vì chủ chiên là người nói trước, người
mở lời, và trách nhiệm đầu tiên của mục tử là nói với đoàn chiên, nên nếu mục tử
không nói, không muốn nói, không biết nói gì, hoặc nói mà chiên không hiểu, thì
qủa thực đối thoại không đạt chuẩn thành công. Tệ hơn, nếu chủ chiên chỉ nói những
gì mình muốn, những gì có lợi cho riêng mình, nói những chuyện không thuộc phận
vụ phải nói, nói những chuyện không liên quan đến hạnh phúc của đoàn chiên,
không đáp ứng nhu cầu sống của đoàn chiên, không giải quyết những vấn đề thiết
thực của đoàn chiên, thì coi như tương quan chủ chiên - đoàn chiên bị tắc nghẽn,
đóng băng. Nhưng còn tệ hơn gấp bội, nếu chủ chăn dùng quyền “mở lời, nói trước”
của mình mà độc thoại, độc diễn, độc chiếm micrô để “thánh tướng” khoe khoang thành
tích, đánh bóng “cái tôi”, mỉa mai, chỉ trích những con chiên không ngoan ngùy,
dễ bảo, “mắng vốn mắng lời” người này người nọ, bôi bác, hạ nhục đám này, trách
móc, thĩa bãi xa gần phe nhóm kia làm cho chuồng chiên mất bình an, đoàn
chiên chia rẽ, hoang mang, hoảng lọan.
Cũng thế, nếu đoàn chiên thấy cửa chuồng ngày càng giống
cổng nhà giam, cửa sắt trại tù, thì chúng sẽ không hớn hở nối đuôi nhau chạy
vào chuồng để được nghỉ ngơi, thư giãn. Trái lại, nếu mặt người giữ cửa hung bạo,
dữ dằn, lại nóng giận “đằng đằng sát khí”, dò xét, đe dọa thì chiên sẽ nói nhỏ
với nhau và cùng tìm đường chuồn, không về chuồng nữa để thoát thân, bảo toàn mạng
sống, dù đời lang bạt sẽ nhiều rủi ro, và cuộc sống “không cửa không nhà” hứa hẹn
nhiều vất vả, nhọc nhằn.
Vì thế, Đức Giêsu không chỉ mô tả “suông và hời hợt” hình
ảnh Tiếng Nói và Cửa chuồng chiên, mà không căn dặn các môn đệ điều phải làm để
là Tiếng Nói của chủ chiên đích thực, và Cửa bảo đảm an toàn và hạnh phúc của
đoàn chiên. Trái lại, Ngài đã dậy các môn đệ là những mục tử nối bước chân chăn
chiên của Ngài bài học quan trọng như bửu bối để trở nên mục tử nhân lành như
Ngài. Bài học, bửu bối đó chính là Tình Yêu sẵn sàng hiến mạng sống của chủ
chiên cho đoàn chiên mình chăn dắt.
Vâng, Đức Giêsu đã lấy chính mạng sống để bảo đảm cho
Tiếng Nói đích thực và Cửa an toàn của Mục Tử nhân lành, bởi “không tình yêu
nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống mình cho người mình yêu” (Ga
15,13), khi qủa quyết: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh
mang sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11).
Vì yêu đến sẵn sàng hiến mạng, nên sẽ không có mục tử
từ chối nói với đoàn chiên của mình, vì Mục Tử nhân lành là người yêu thương
chiên, “biết chiên” (Ga 10,14) và “gọi tên từng con” (Ga 10,3); sẽ không có mục
tử độc thoại, khống chế, áp đặt, bắt chiên phải gục đầu, nhắm mắt nghe mà không
được đối thoại, vì mục tử nhân lành là người có đủ tư cách để nói: “Tôi biết
chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10,14), bởi biết nhờ trao đổi,
trao đổi để hiểu biết nhau hơn; sẽ không có chủ chăn không biết cách nói, hoăc
không biết nói gì, vì khi yêu thương đoàn chiên đến độ “tự ý hy sinh mạng sống
mình”, trong khi “mạng sống của mình không ai lấy đi được” (Ga 10,18), thì nội
dung Tiếng Nói của mục tử sẽ là tình yêu mãnh liệt của chủ chiên nhân lành dành
cho đoàn chiên, và chính trái tim đầy “tình yêu chiên” sẽ chỉ cho người chăn
chiên cách nói hay nhất, cách nói dễ thương nhất, cách nói ân tình cha con nhất,
cách nói thuyết phục nhất, cách nói tuyệt vời của Chúa Thánh Thần có sức biến đổi
trái tim, đổi mới cuộc đời của đoàn chiên, để chiên không phải thiếu gì,
nhưng được thỏa thuê no đầy, thảnh thơi, hạnh phúc bên bờ suối trong, trên đồng
cỏ xanh rì.
Thực vậy, chỉ với tình yêu “sẵn sàng hiến mạng sống
mình cho đoàn chiên”, người chăn chiên mới chu toàn được sứ vụ là Tiếng Nói và
Cửa cho đoàn chiên. Cũng với tình yêu mãnh liệt và liều lĩnh là dâng hiến cả mạng
sống, mục tử mới có thể trở thành mục tử nhân lành, người chăn dắt nhân hậu, và
khi đó, không cần phải có tài hùng biện, hay “thôi miên”, lôi cuốn, cũng chẳng
cần văn chương hoa mỹ, với những ngôn từ có cánh, mục tử nhân lành vẫn đánh động
tâm hồn đám chiên ghẻ lở, ngang ngược; vẫn đưa về chuồng những chiên lầm đường
lạc lối trót nghe lời dụ dỗ ngon ngọt của sói rừng; vẫn được đoàn chiên chăm
chú lắng nghe, nhất là mãi mãi được đoàn chiên yêu thương, tín nhiệm, để trao đổi tâm tư, trút bỏ tâm sự, cởi mở cõi
lòng với chủ chăn, cho Tin Mừng Cứu Độ của Thiên Chúa được đón nhận, như người
đàn bà Samari ngoại đạo đã trân trọng nghe và chân thành nói với Đức Giêsu bên
bờ giếng Giacóp. Nhờ vậy, bà đã nhận ra Ngài là Mục Tử nhân lành, là Đấng Thiên
Chúa sai đến trong thế gian để yêu thương và cứu độ mọi người, không trừ ai.
Jorathe
Nắng Tím
0 nhận xét:
Đăng nhận xét