Suy
niệm Tin Mừng Chúa Nhật 5 Mùa Chay, năm B
Trong
Tin Mừng nhất lãm, Đức Giêsu đã công khai nói với các môn đệ ít là ba lần về
cuộc tử nạn và phục sinh sắp tới của Ngài : “Con Người sẽ bị nộp cho các
thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án xử tử Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo
báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá, và ngày thứ ba, Người sẽ trỗi dậy”
(Mt 20,18-19). Nói điều này, Đức Giêsu đã làm sợ hãi và nản lòng các môn đệ, vì
không ai đi theo Ngài đã nghĩ đến thảm cảnh Thầy mình sẽ bị kết án tử và đóng
đinh là hình phạt nặng nề nhất chỉ dành cho tội phạm nguy hiểm. Chính vì thế
Phêrô, tông đồ trưởng, tuy ở gần và yêu mến Thầy hơn các anh em khác cũng không
đủ bình tĩnh cầm lòng, nhưng đã bức xúc lên tiếng can ngăn : “Xin Thiên
Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!”, và ông đã bị Đức Giêsu quở
trách : “Xatan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của
anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt
16,22-23).
Hôm
nay Tin Mừng Gioan kể lại câu chuyện giữa Đức Giêsu và hai ông Philipphê, Anrê
cùng những người Hy Lạp được hai ông dẫn
đến. Trong dịp này, Đức Giêsu cũng đề cập đến việc Ngài sẽ phải chết trong tay
những kẻ chống đối, quyết tâm tiêu dệt Ngài, nhưng khác những lần loan báo trước,
lần này, Ngài dùng hình ảnh hạt lúa : “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt
lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình ; còn
nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu qúy mạng sống mình, thì sẽ
mất ; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho
sự sống đời đời” (Ga 12,24-25).
Hình
ảnh hạt lúa thật gần gũi với mọi người, và là hình ảnh gây nhiều ấn tượng, bởi
ai cũng biết hat lúa phải được chôn vùi trong đất mới nẩy mầm, sau khi thối rữa.
Nhưng chính từ tình trạng thối rữa của hạt lúa mà “sự sống mới” được trổ sinh,
và đem lại nhiều bông hạt. Khi dùng hình ảnh hạt lúa, Đức Giêsu không chỉ loan
báo việc Ngài sẽ phải chết và sống lại mà thôi, mà còn cho các môn đệ thấy “Con
Người Thiên Chúa” của Ngài, mầu nhiệm nhập thể làm người của Ngài. Nói cách
khác, Ngài mạc khải cho chúng ta : Ngài vừa là Thiên Chúa, vừa là con người,
với hai bản tính Thiên Chúa và con người :
1. Như
hạt lúa sẽ bị thối rữa đi, Đức Giêsu mang lấy số phận phải chết của con người :
Phận
người đáng thương nhất là “biết mình phải chết”. Mọi loài thụ tạo đều phải chết,
trừ các thiên thần là thụ tạo thiêng liêng, nhưng con người đáng thương hơn tất
cả, vì biết mình sẽ chết, biết thân xác tươi tốt, vạm vỡ, xinh đẹp của mình sẽ
thối rữa, tiêu tan một ngày, trong khi con vật tuy cũng chết nhưng không biết
mình phải chết. Chính vì “biết” mà phận người đắng đót, đau thương!
Đức
Giêsu mang lấy phận người, khi xuống thế làm người. Như mọi người, Ngài lệ thuộc
những điều kiện, và giới hạn của kiếp người, và chết là sự thật khủng kiếp đáng
kinh sợ nhất, như chính Ngài đã xao xuyến, bồi hồi, hoảng hốt trước giờ lên đường
đi chịu chết (x. Ga 2,27).
Nhưng
số phận phải chết ở con người không đơn thuần tự động như cỗ máy đến thời hạn
phải ngưng, vì con người có quyền và bổn phận trên cái chết của mình, khi cho
nó một hướng đi, một đích tới, một giá trị, một ý nghiã mà ngoài bản thân mình,
không ai có thể thay thế đảm trách quyền lợi và nghiã vụ tuyệt đối riêng tư
này. Chính Đức Giêsu đã khẳng định : “Ai yêu qúy mạng sống mình, thì sẽ mất ;
còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời
đời” (Ga 12,25). Như thế, bản thân mỗi người có quyền yêu hoặc không yêu mạng sống ;
có quyền chọn cho mạng sống mình một tuyến đường, một đích điểm ; có quyền
định đoạt tương lai đời đời cho mạng sống, bởi nếu sự chết toàn quyền định đọat
mạng sống như toàn quyền trên thân xác, thì Đức Giêsu đã không nói với chúng ta
về những khả thể yêu - ghét, mất - còn, tạm bợ - đời đời của mạng sống.
2. Như
“hạt lúa vâng phục” chấp nhận bị chôn vùi, thối rữa, Đức Giêsu
mang tất cả sức mạnh toàn năng và sự sống viên mãn của Thiên Chúa :
Hạt
lúa thối rữa, nhưng không tiêu tan “vô tích sự”. Trái lại, nó thối rữa để nẩy mầm,
đội đất mọc lên thành cây lúa, trổ sinh những bông hạt. Tiếng nói từ trời của
Chúa Cha : “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!”, khi Đức
Giêsu ngước mắt cầu nguyện : “Lậy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì
giờ này mà con đến. Lậy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” (Ga 12,27-28) đã làm chứng
thiên tính của Đức Giêsu, chứng thực Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng Thiên Chúa
sai đến để cứu nhân loại trước nhiều người, nên cũng từ Ngài, từ bản tính Thiên
Chúa của Ngài, sự sống trỗi dậy từ cõi chết, sức sống bùng phát từ “thối rữa” của
hạt lúa bị chôn vùi, bởi ở nơi Ngài luôn hiện diện Ba Ngôi Thiên Chúa, trong
Ngài luôn đầy tràn sức mạnh và sự sống viên mãn, đời đời của Đấng Toàn Năng.
Thánh
Phaolô đã qủang diễn “hạt lúa vâng phục” là Đức Giêsu trong thư gửi cộng đoàn
Do Thái : “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van
khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi
chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người
đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục ; và khi
chính bản thân đã đến mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho
tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5,7-9).
Qủa
thực, chính trong Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người, chúng ta được chết với Thiên
Chúa, vì Đức Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa đã chết với chúng ta ; chính
cùng với Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người, chúng ta cho cái chết của mình những giá trị và ý nghiã đời đời, khi được
cùng với Thiên Chúa tiến về vương quốc vĩnh cửu của Ngài, vì Con Một Thiên Chúa
đã đích thân dắt chúng ta đi với Ngài đến
tận mộ phần tăm tối của sự chết ; chính nhờ Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người,
chúng ta được sống lại và hưởng vinh quang phục sinh với Ngài, vì “nếu ta cùng
chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người” (2 Tm 2,11) .
Vâng,
Đức Giêsu là Hạt Lúa của Thiên Chúa nuôi sống nhân loại, Hạt Lúa tuyệt đối vâng
phục thánh ý Chúa Cha xuống thế làm người để chịu chôn vùi, thối rữa với
con người phải chết, Hạt Lúa Thiên Chúa là “sự sống lại và sự sống” (Ga 11,25)
cho con người đáng phải chết được sống lại và sống đời đời.
Jorathe
Nắng Tím