Tìm kiếm Blog này

Thứ Tư, 5 tháng 9, 2018

NỖI ĐAU CỦA MẸ

                                             

NỖI  ĐAU  CỦA  MẸ
 
     Người thiếu nữ  chuẩn bị bước vào đời làm vợ, làm mẹ thường chỉ thấy những hình ảnh đẹp về một gia đình hạnh phúc, có cha mẹ yêu thương và con cái hiếu thảo, và mường tượng  niềm vui đong đưa ru con ngủ trên võng trưa hè, dắt tay con ngày đầu tiên đến trường, đón con về từ phương xa thành đạt và người mẹ tương lai ấy tuyệt nhiên không nghĩ, đúng hơn là không dám nghĩ đến những tình huống không vui, nhưng hoàn toàn có thể  xẩy ra như những ngày buồn vì con đau, ngày sầu vì con tù tội, ngày khổ vì con sa cơ thất thế, ngày thê lương vì con  gục ngã cô đơn. Phải đợi cho đến gần hết đời, người mẹ mới  ngỡ ngàng khám phá: tình mẹ luôn là tình trọn hảo, tuyệt vời, và thánh thiện, vì tình ấy chất ngất hy sinh với nỗi đau nhiều hơn niềm vui, nỗi khổ nhiều hơn niềm hoan lạc.
     Cùng Giáo Hội cử hành lễ kính Thánh Giá và Đức Mẹ Sầu Bi, thiết tưởng không gì  chính đáng hơn  là chiêm ngưỡng đời Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ chúng ta.
    Tin Mừng lễ Đức Mẹ sầu bi tường thuật cảnh Mẹ đứng dưới chân thánh giá, nhìn con chết tức tưởi, ô nhục trước những chế diễu, khinh mạn, thách thức và nguyền rủa của đám đông a dua, phản phúc, vô cảm. Và  trong nỗi đau xé tim, nát lòng này, Đức Giêsu đã thì thào thưa với mẹ mình: “Thưa Bà, đây là con của Bà”. Rồi Người nói với môn đệ Gioan: “Đây là Mẹ của anh”. Kể từ giờ đó, “người môn đệ rước bà về nhà mình” (Ga 19,26-27).
    Gọi Mẹ mình là Bà, Đức Giêsu đã theo truyền thống văn hoá để biểu lộ lòng cung kính, trân trọng đối với một con người đầy giá trị. Danh xưng Bà trong tiếng Aramêen, là tiếng Đức Giêsu nói, bầy tỏ lòng yêu mến và trân trọng đặc biệt. Đức  Giêsu gọi Mẹ mình bằng danh xưng này, vì yêu mến Mẹ đã đành, nhưng còn đặc biệt  trân qúy và kính trọng Mẹ vì lòng tín thác, trung kiên, khiêm nhu, qủa cảm và bình an của Mẹ qua bao nhiêu nỗi đau của đời làm mẹ: 

  1. Đức  Maria đã thể hiện lòng tín thác làm Mẹ trong nỗi đau “thụ thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần”
     Với người vợ trẻ, thì chồng là tất cả, nên khi bị chồng nghi ngờ điều gì, nhất là nghi ngờ bào thai trong lòng mình không phải của anh, thì đó là nỗi đau vô cùng kinh hoàng, đáng sợ, và mau chóng dẫn đến tuyệt vọng. Đức Maria đã rơi vào nỗi đau khủng khiếp đắng đót này, khi thánh Giuse toan tính trốn đi, bỏ  Đức Mẹ cách kín đáo, vì không hiểu vợ mình “đã thụ thai do quyền phép của Chúa Thánh Thần và sẽ sinh hạ một con trai được đặt tên là Giêsu, là Con của Đấng Tối Cao” (x. Lc 1, 30).
     Được chọn làm Mẹ đồng trinh của Thiên Chúa làm người, Đức Maria ý thức nỗi đau sẽ phải chịu, vì giới hạn của con ngưòi trước mầu nhiệm. Là con người, Đức Maria không đủ khả năng để giải thích mầu nhiệm Truyền Tin mà Gabriel, sứ thần của Thiên Chúa đã thực hiện trên mình. Cũng vậy, là con người, thánh Giuse không thể lý giải được hiện tượng Maria, vợ mình có thai khi chưa một lần ân ái. Vì thế mà nỗi đau đã làm khổ cả hai người. Nhưng dù đau đến vỡ tim, khổ đến đứt ruột, Đức Maria vẫn luôn tín thác vào ơn gọi làm Mẹ mà sứ thần đã loan báo, và vì trung tín với Ơn Gọi ấy, Đức Maria đã sống trọn vẹn  đời tận hiến bằng sẵn sàng “Xin Vâng” trước mọi nỗi đau  của đời làm Mẹ Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người.  

    2. Đức Maria đã thể hiện lòng trung kiên làm Mẹ trong nỗi đau của lời tiên tri Simêon:
   Không phải người mẹ nào cũng ý thức vị thế cao cả và giá trị tuyệt vời được làm mẹ của mình. Bằng chứng là nhiều người mẹ đã tự nguyện phá thai, bỏ con, bán con, cho con, hành hạ con, biến con thành phương tiện. Nhiều người mẹ thanh thản phá thai vì  muốn tự do ăn chơi, bay nhẩy, hưởng thụ tuổi thanh xuân; người khác phá thai vì sợ tàn phai nhan sắc do thức khuya dậy sớm bú mớm con thơ; lại có người lấy chồng nhưng cương quyết không để dính thai vì ích kỷ, muốn sống đời hưởng thụ. Vì thế, đón nhận con cái là một chọn lựa không luôn dễ dàng, vì không phải lúc nào con cái cũng là niềm vui.
    Đức Maria ngay khi vừa thụ thai đã gặp khó khăn với thánh Giuse vì chuyện “thụ thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần”, nay lại thêm nỗi đau do lời tiên tri sắc như dao của ông già Simêon: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người  Ítraen ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng…Còn chính bà, một lữơi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà” (Lc 2,34-35).
    Qủa thực, ai nghe  lời tiên tri sắc như gươm trên mà không sợ, không ớn. Như càc bà mẹ thương con, Đức Maria cũng ớn cũng sợ đến toát mồ hôi, nhưng Mẹ kiên cường đảm nhận thiên chức làm mẹ với tất cả hy sinh, và trách nhiệm, dù biết mình sẽ tan nát lòng vì trăm ngàn nỗi đau. 

    3. Đức Maria đã thể hiện lòng khiêm nhu làm Mẹ trong nỗi đau khi lạc mất con:
      Ngày quốc khánh 2 tháng 9 vừa qua, đã có hơn tám chục ngàn người về Vũng Tàu tắm biển, và hôm đó, đã có ba chục em bé  lạc mất cha mẹ ngay trên bãi tắm. Không nói thì các bạn cũng có thể mường tượng cơn hoảng loạn, sợ hãi và tiếng gào khóc nhói tim người chung quanh của các bà mẹ lạc mất con. Nỗi đau của các bà thì khôn tả, nước mắt của các bà thì đắng đót, xót xa, vì tình của các bà dành cho con  quá  bao la, diệu vợi !
    Đức Maria cũng đã sống nỗi đau lạc mất con đó, khi Đức Giêsu mười hai tuổi theo cha mẹ trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua. Xong kỳ lễ, cha mẹ Ngài về, còn Ngài ở lại mà cha mẹ Ngài không hay biết. “Ông bà cứ tưởng cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc. Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giêrusalem mà tìm. Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi”  (Lc 2,44-46) .
    Và như bất cứ cha mẹ nào khác, thánh Giuse và Đức Maria đã trách nhẹ Đức Giêsu: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” (Lc 2,48). Đây là lời trách của tình yêu bị thử thách, và của nỗi đau yêu thương, nhưng Đức Giêsu xem ra không mấy quan tâm đến nỗi đau còn đậm nét hốt hoảng, sợ hãi trên khuôn mặt loang lổ nước mắt và mồ hôi của cha mẹ Ngài, khi bình thản trả lời: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2, 49). Thật sững sờ đến thất vọng, và bất ngờ đến sụp đổ đời làm cha mẹ, nếu hoàn cảnh đó rơi vào chúng ta !
    Thực vậy, khó có thể chấp nhận thái độ bình thản đến vô can của Đức Giêsu trước nỗi đau của cha mẹ mình, và khó có thể đồng tình với Đức Giêsu trong cách trả lời không mấy xứng hợp với phận làm con. Nhưng chính trong thử thách trước mầu nhiệm sứ vụ của  Đức Giêsu, dù chưa hiểu, thánh Giuse và Đức Maria vẫn giữ thái độ khiêm tốn, vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa một cách triệt để, vô điều kiện. Riêng Đức Maria, Mẹ đã khiêm tốn ngay trong nỗi đau làm Mẹ mà không được con thông cảm ; khiêm tốn ngay trong nỗi đau làm Mẹ mà không được con  sẻ chia; khiêm tốn ngay trong nỗi đau làm Mẹ mà không được biết gì về con. Và Tin Mừng đã ghi lại: “Ông bà không hiểu lời Người vừa nói” (Lc 2, 50), “Không hiểu lời Người vừa nói” là cách diễn tả  tinh tế tâm trạng rối bời, hoang mang của Đức Mẹ và thánh Giuse dưới ngòi bút tài tình của thánh sử Luca.

   4. Đức Maria đã thể hiện lòng qủa cảm và bình an làm Mẹ trong nỗi đau dưới chân thánh giá  
      Thời chiến tranh, cảnh người mẹ ôm xác con bó trong tấm poncho hay bao nhựa đưa về từ chiến trường nhiều và  quen thuộc đến độ đã ít nhiều làm chai đá trái tim và khô cạn giòng nước mắt. Có những bà mẹ lăn lộn bên xác con, gào khóc đến mệt lả. Các bà chẳng còn thiết sống, nên chẳng thiết ăn, thiết uống và để thân xác tiều tụy đến thảm hại.
     Nhưng có một điều rất đặc biệt là hầu như không bà mẹ nào đã thể hiện được lòng qủa cảm và bình an trước xác con, và hầu như tất cả đều rối loạn, mất hết khả năng kiểm soát cảm xúc. Đức Maria thì khác: “Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người” (Ga 19,25). Thánh sử Gioan là người môn đệ của Đức Giêsu gần gũi Đức Mẹ nhất trong  nhóm Mười Hai, nên hình ảnh dưới chân thánh giá chiều hôm ấy đã  được thánh sử “chụp” rất chính xác. Trên tấm hình chụp trực diện ấy, Đức Maria đã đứng gần thánh giá, chứ không “bò lê bò càng” thảm thiết khóc lóc, than thở, hay ngồi bệt dưới đất, rũ rượi ôm chân thánh giá.
     “Đứng” biểu hiện một thái độ qủa cảm trong nỗi đau tột cùng bên cạnh xác con chịu treo. Đứng bộc lộ một trái tim tuy tan nát nhưng bình an trong nỗi đau ngút ngàn. Đứng gần thập giá Đức Giêsu, Đức Maria đã hiệp thông nỗi đau bị con người lên án, bị môn đệ phản bội, bị Chúa Cha bỏ rơi của Đức Giêsu, Con trai yếu dấu của mình với một lòng qủa cảm phi thường. Phải phi thường mới hiệp thông được trong nỗi đau vô cùng của Con Thiên Chúa, cùng lúc vừa là Chủ Tế vừa là Lễ Tế trong hy lễ đền tội mọi người. Phải phi thường mới đứng và ngước nhìn chăm chú Đấng Cứu Độ muôn dân đang chịu hình phạt thay cho toàn thể nhân loại. Phải phi thường mới đứng và lặng lẽ hiệp thông nỗi đau của người Tôi Tớ đau khổ của Giavê đang rướn mình trút hơi thở cuối cùng trên thập tự. Và phải phi thường mới có thể qủa cảm sống đến cùng ơn gọi làm Mẹ của người con đến để làm “chiên gánh tội người khác”.
    “Đứng” còn biểu hiện tâm hồn bình an trong thử thách. Đức Maria đã đứng dưới chân thánh giá của con mình, vì tâm hồn Mẹ bình an ngay trong nỗi đau không thể tả xiết của trái tim người mẹ. Mẹ đau đớn lắm, nhưng Mẹ bình an ;  trái tim Mẹ  tan vỡ  vì Đau, nhưng tâm hồn Mẹ tròn đầy vì Tin. Nhờ Tin mà Mẹ đứng được trong thử thách ; nhờ Tin mà Mẹ đứng vững trong niềm đau, nỗi khổ. Mẹ tin Con Mẹ là Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ; Mẹ tin chương trình cứu thế của con Mẹ sắp hoàn thành; Mẹ tin nhục hình là thánh ý Chúa Cha; Mẹ tin thập giá là con đường phải đi để được sống ; Mẹ tin ơn cứu độ chỉ đến từ cái chết thảm thương của con Mẹ. Tắt một lời, Mẹ tin tuyệt đối Con Mẹ và chương trình cứu thế của Con.
     Đức Maria đã đứng nhờ niềm tin, đứng trong niềm tin. Mẹ còn đứng để tin, đứng để niềm tin không rũ liệt, gục ngã; đứng để niềm tin được thắp sáng, chiếu toả; đứng để niềm tin không bao giờ thoả hiệp, đầu hàng; đứng để niềm tin mãi mãi là niềm tin ở Đức Giêsu chịu đóng đinh, chứ không là  niềm tin nào khác.  
    Thực vậy, dưới chân thánh giá, trong nỗi đau mất con vĩnh viễn, Đức Maria đã đứng qủa cảm và bình an. Qủa cảm vì Tin và Bình An cũng nhờ Tin ở Lời sứ thần ngày Truyền Tin: “Và đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai báu Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1,31-33).
    Lậy Mẹ Sầu Bi yêu dấu của chúng con !
    Mẹ đã trải qua rất nhiều nỗi đau của đời làm Mẹ Đức Giêsu, Đấng đã đến để vâng phục thánh ý Chúa Cha, và vâng phục đến chết trên thập giá (Pl 2,8). Làm mẹ một người con khổ đau, nên Mẹ đau khổ rất nhiều ; làm mẹ một Thiên Chúa chết cho con người, nên từng ngày làm mẹ là từng ngày Mẹ cùng chết với Đức Giêsu -Thiên Chúa.
    Chúng con tôn vinh Mẹ là Mẹ của những tâm hồn tan nát vì thất vọng, tan vỡ vì cô đơn, tan tành vì bị phản bội, tan hoang vì tình đời bạc bẽo. Ngước nhìn lên thánh giá chiều nay, chúng con có Mẹ là nguồn Ủi An. Xin Mẹ thương ủi an, nâng đỡ những con tim đang ngộp thở vì quá khổ đau trên dương thế này.
Jorathe Nắng Tím

Quý độc giả có thể nghe bài audio tại đây : https://www.youtube.com/watch?v=ehljx6lYt2o&feature=youtu.be