Tìm kiếm Blog này

Thứ Tư, 20 tháng 2, 2019

Mùa Chay - Mùa Thương Xót

Làm ăn, buôn bán trong xã hội hôm nay đều cần đến khế ước, giao kèo. Không giao kèo, khế ước và không có con dấu to đùng, đỏ chói của phòng Công Chứng thì coi chừng mất toi sự nghiệp, phá sản, trắng tay. Bao nhiêu cảnh mếu máo khóc như cười, cười như khóc, dở dở điên điên, khùng khùng dại dại xảy ra hằng ngày trên đất nước này khi niềm tin ở nhau không còn, hai chữ tín nhiệm, trung tín chỉ còn là những từ ngữ vô nghĩa. Nhà cửa, ruộng đất, gia tài… tất tất trở thành mồi ngon, cạm bẫy, cớ vấp phạm và người ta rình rập, căn me, lật lọng, giành giật, cắn xé nhau. Khế ước, giao kèo vì thế càng trở nên cần thiết để ngăn chặn những cảnh huynh đệ tương tàn, những màn lừa đảo thần kỳ, những thủ đoạn tuyệt chiêu “phỗng tay trên”.

Không buôn bán, làm ăn như thiên hạ đang biến “thương trường thành chiến trường”, nhưng Đức Kitô cũng rất nhân loại và hợp thời khi dùng ngôn ngữ của thời đại để chuyển tải chân lý siêu nhiên khi Ngài dùng kiểu giao kèo rất đong đưa, khéo léo để nói về lòng thương xót của Thiên Chúa.

Tin Mừng thánh Luca thuật lại: “Đức Kitô nói với đám đông: “Hãy có lòng xót thương như Cha các con trên trời. Đừng đoán xét để khỏi bị đoán xét. Đừng lên
án để khỏi bị lên án. Hãy tha thứ để được thứ tha. Hãy cho đi và sẽ nhận về những đấu lớn, chặt đầy, vì các con đong đấu nào thì sẽ được đong lại bằng đấu ấy” (Lc 6,36-39). Khế ước thương xót của Đức Kitô rất rõ ràng và chính xác gồm hai vế cân đối: ai không xét đoán người khác thì sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Ai tha thứ người khác thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Ai rộng lượng với người khác thì sẽ được Thiên Chúa rộng lượng. Nói tóm lại, cư xử với tha nhân thế nào thì sẽ được Thiên Chúa cư xử như vậy. Rộng rãi với tha nhân làm sao thì Thiên Chúa sẽ rộng lượng như thế. Khế ước, giao kèo giữa con người với Thiên Chúa thật minh bạch, công bằng.

Nhưng mục đích của khế ước ấy là gì? Và người hưởng quyền lợi của giao kèo ấy là ai?
Đức Kitô xác định ngay từ đầu: Hãy có lòng xót thương như Cha các con là Đấng giàu lòng thương xót. Đây chính là mục tiêu của khế ước. Mục tiêu này nhằm biến đổi tất cả những ai đi theo Đức Kitô thành những người có lòng xót thương, thay đổi trái tim chai đá thành những trái tim biết chạnh lòng thương, động lòng trắc ẩn, làm cho những cứng cỏi, ngạo nghễ, dữ tợn trong tâm hồn trở nên mềm mỏng, hiền hậu, khiêm nhường để thật lòng xót thương. Mục tiêu Đức Kitô kêu gọi những người theo Ngài là trở nên môn đệ của Thiên Chúa đầy lòng thương xót, môn sinh của sư phụ chỉ biết xót thương và chứng nhân của Cha trên trời là Tình Yêu vô cùng nhân hậu. Đức Kitô nói thế, bởi sự thánh thiện của Thiên Chúa chính là lòng thương xót của Ngài. Ngoài lòng thương xót, Thiên Chúa sẽ không minh chứng được sự thánh thiện của Ngài. Bỏ đi lòng thương xót, Thiên Chúa sẽ không còn là Thiên Chúa của Đức Kitô đã mạc khải. Suốt cuộc đời dương thế, Đức Kitô, Con Thiên Chúa đã chỉ làm chứng một chân lý: Thiên Chúa là tình yêu thương xót và “tình xót thương của Ngài trải từ đời nọ đến đời kia, tràn trề trên những ai kính sợ Ngài”. Cũng chính để làm chứng chân lý “Thiên Chúa xót thương” mà Đức Kitô đã chịu khổ hình và chịu chết để đi đến tận cùng cái logic của lòng thương xót vô cùng ấy. Chính vì sự thánh thiện của Thiên Chúa hệ tại ở lòng Ngài xót thương, nên khi trình bày một Thiên Chúa không xót thương, hay một Thiên Chúa ghen tị, thích “bới lông tìm vết”, một Thiên Chúa với cặp mắt cú vọ rình mò tội lỗi của con cái thì chắc chắn Thiên Chúa ấy rất xa lạ, và hoàn toàn không phải Thiên Chúa của Đức Kitô, “Đấng giàu lòng thương xót, nhân từ, chậm bất bình và rất đỗi khoan dung”, “Thiên Chúa nhẫn nại đợi chờ, vất vả tìm kiếm, dõi mắt ngóng trông bước chân trở về của đứa con hoang đàng, tội lỗi”, “Thiên Chúa lặn lội ngược xuôi tìm cho được chiên con lạc đàn và hân hoan, âu yếm ẵm trên vai”.

Dưới bút vẽ của một người nghèo nàn tình yêu, rỗng tuyếch tình người, cằn cỗi tình thân thì Thiên Chúa sẽ mang diện mạo cau có, bẳn gắt, khó chịu của một quan toà chỉ hạch tội chứ không quan tâm đến hoàn cảnh, cuộc sống và những đức tính, hành động tốt của can phạm mà khoan hồng, ân xá. Trong đôi mắt chật hẹp, thiển cận của con người có giới hạn, có thể Thiên Chúa sẽ bị “chỉnh hình” thành ông kẹ hung dữ, cai ngục gian hùng. Bằng bàn cân, thước đo rất bủn xỉn, hà tiện của con người,


Thiên Chúa sẽ trở thành ông chủ keo kiệt, bất nhân, hà khắc. Nói tóm lại, ngoài Đức Kitô, con Thiên Chúa từ Trời xuống, không ai trong nhân loại đã có thể nói đúng Thiên Chúa là ai, Ngài làm gì và muốn gì. Chỉ một mình và duy nhất một mình Đức Kitô, Thiên Chúa mới mạc khải chính xác Thiên Chúa là Tình yêu thương xót, Ngài hằng thương xót con người từ đời nọ đến đời kia và muốn tất cả mọi người trở nên giống Ngài trong lòng tình yêu xót thương.

Căn cước, dung mạo, hoạt động, đường lối, kế hoạch của Thiên Chúa thật quá rõ qua giáo huấn và cuộc đời Đức Kitô. Không còn nghi vấn nào về Thiên Chúa mà Đức Kitô đã không công khai trả lời những người đương thời, nhất là các ông Biệt Phái thông thạo giáo lý, lề luật. Vấn đề là họ đã không thể chấp nhận được hình ảnh, dung mạo, căn cước một Thiên Chúa đầy lòng xót thương. Điểm chính yếu trong vụ án giết Đức Kitô chính là những người lãnh đạo tôn giáo thời đó đã không đủ từ tâm, nhân hậu để chấp nhận Thiên Chúa rất từ tâm, nhân hậu. Người hung dữ, kẻ ác tâm, độc địa thường xa lạ và xa tránh những gì là nhân ái, hiền lành, yêu thương. Như bóng tối không thể ở cùng ánh sáng, như rạng đông rực rỡ không thể chung với đêm đen một bầu trời; những trái tim đen ngòm hận thù, tham lam, ích kỷ sẽ không bao giờ chấp nhận Thiên Chúa của mình lại là Thiên Chúa của khiêm nhường, bao dung, độ lượng, thứ tha. Người ác cần sư phụ ác như tín đồ giáo phái giết người cần một Thiên Chúa điên cuồng, khát máu. Những người lãnh đạo tôn giáo và một số người a dua theo họ đã lập mưu bắt, kết án và giết Đức Kitô chỉ vì Thiên Chúa giàu lòng thương xót của Ngài làm chứng đã cản trở đường lối thù hận, hung dữ, ác độc của họ; chỉ vì Thiên Chúa thương người tội lỗi của Đức Kitô làm họ mất mặt, mất uy tín, mất cả đất sống, đất làm ăn khi tình thương xót trước sau sẽ lôi cuốn mọi tâm hồn như họ đã sốt ruột than thở với nhau: “Chúng ta phải làm gì bây giờ?... Nếu cứ để ông ta tiếp tục, mọi người sẽ tin theo ông ta” (Ga 11,47-48).


Tin theo Đức Kitô như thế là tin Thiên Chúa là tình yêu thương xót, đồng thời phải trở nên thương xót như chính Ngài. Nhưng ai là đối tượng của lòng thương xót?

Thưa chính chúng ta. Chúng ta gồm ta và mọi người. Trước hết, đối tượng của lòng thương xót nơi ta chính là ta, vì ta cũng rất cần được xót thương trước khi ta xót thương được mọi người. Xót thương chính mình là đương nhiên nhận mình cần xót thương. Người cần xót thương là người yếu đuối, thiếu thốn, có tội. Nhận mình cần được xót thương là khiêm tốn, chân thành. Lòng khiêm nhường đã trở thành đất tốt, điều kiện thuận lợi cho lòng xót thương và nhận mình cần được thương xót là thái độ đẹp nhất của con cái Thiên Chúa xót thương. Nhờ thái độ và tâm tình khiêm tốn mà ơn thương xót tuôn đổ tràn trề trong tâm hồn người biết xót thương. Khi biết mình cần xót thương, người có lòng thương xót sẽ dễ dàng cảm thông, thương xót người khác. Có kinh nghiệm tội lỗi mới biết nhẹ lời với tội nhân. Có khổ vì tội mới biết người có tội khổ như thế nào và dễ chia sẻ, giúp họ thoát ra mặc cảm tội lỗi. Có day dứt, cay đắng vì tội mới hiểu nỗi cô đơn đày đọa của người phạm tội… Nhờ thế mà xót thương bênh đỡ, xót thương chở che, xót thương tha thứ, xót thương chữa lành, xót thương phục hồi, xót thương thăng tiến. Xót thương mình và xót thương người luôn song hành và hỗ trợ nhau. Người không hề xót thương mình là người mang ảo tưởng thánh thiện, nghĩ mình đạo đức, hoàn thiện. Họ đang ở gần biên giới kiêu căng, tự phụ và bên bờ vực thẳm của sơ cứng, vô cảm trước tha nhân. Trái tim bằng thịt giàu lòng xót thương trước hết là trái tim khiêm tốn, hiền lành nhận mình cũng rất đáng thương và luôn cần được thương xót. Cũng trái tim ấy sẽ thiết tha với tình yêu xót thương mọi mảnh đời, mọi cảnh đời và sẵn sàng ôm lấy hết mọi cuộc đời đáng thương như họ trong cùng một trái tim đầy tình yêu thương xót. Họ đang nên giống Cha trên trời là Đấng làm mưa nắng trên cả kẻ dữ, người lành chỉ vì lòng xót thương của Ngài vô cùng, vô tận, vô thủy vô chung.



Đặt chúng ta trước khế ước, giao kèo Thương Xót, Đức Kitô nhắc nhở lòng thương xót của Thiên Chúa không là một thứ thương xót rẻ tiền, vứt đầy đường để ta tha hồ dẫm lên, đùa cợt, coi thường. Lòng thương xót của Thiên Chúa tuy vô điều kiện vì Ngài chẳng đòi ta điều gì có lợi cho Ngài, tuy đơn phương vì Ngài luôn là người bắt đầu bước thứ nhất, tuy bất cân xứng vì Ngài giàu có nên tuôn đổ không tính toán; nhưng không vì thế mà lòng thương xót ấy cho phép ta thụ động, ỷ lại, lười biếng, vô trách nhiệm. Trái lại, nếu ta ngoan cố không cộng tác, nếu ta chỉ phó mặc buông thả, nếu tâm hồn vô cảm, trơ như đá thì lòng thương xót ấy sẽ không thấm nhập được vào đời ta; bởi những thái độ tiêu cực trên đã khoá kín cửa lòng, không cho tâm hồn tiếp nhận lòng thương xót. Khi mời gọi ta đừng xét đoán, đừng lên án, đừng ích kỷ nhưng biết cho đi, Đức Kitô đặt vào tay ta chìa khoá của chính cửa lòng ta. Nhờ những chìa khoá này mà cánh cửa tâm hồn ta không bị khép kín, đóng chặt để Thiên Chúa ghé vào và ở lại được. Những chìa khoá cho phép ta mở cửa lòng mình để lòng thương xót Chúa vào được cũng chính là chìa khoá để ta mở cửa lòng thương xót Chúa. Cùng một chìa nhưng mở được cả hai tâm hồn: tâm hồn bé nhỏ của ta và tâm hồn vĩ đại, bao la của Thiên Chúa. Cùng một chìa nhưng mở được cả hai lòng: lòng thương xót nghèo nàn của ta và lòng xót thương giàu có của Thiên Chúa. Cùng một chìa nhưng mở được cả hai kho tàng: kho tàng lòng ta bé bỏng, nông cạn và kho tàng tình Chúa bao la, sâu thẳm.

Mùa Chay không những nhắc nhở khế ước thương xót giữa Thiên Chúa và con người mà chỉ một bên có lợi là chúng ta; Mùa Chay còn nhắc khế ước ấy phải được thực hiện theo kiểu của Thiên Chúa, có nghĩa là thứ tha không chỉ một lần nhưng là bảy mươi lần bảy: tha mãi tha hoài, tha cho đến chết, chết rồi vẫn rộng lượng thứ tha (Mt 18,21-22); là xót thương khi quảng đại, vô tư tha nợ như ông chủ đã xót thương gia nhân mà tha hết cho anh món nợ lớn (Mt 18,27); là xót thương như Thiên Chúa, Đấng đã đến thế gian để cứu chữa chứ không để luận phạt (Ga 3,17). Được như thế, Mùa Chay sẽ trở thành Mùa Chay thánh vì có lòng thương xót của Chúa trải kín trên con người và có tình chia sẻ, xót thương của con người phủ che nhau. Chỉ lòng thương xót mới là dấu chỉ sự thánh thiện của Thiên Chúa, cũng như chỉ lòng xót thương mới là chìa khoá để mở kho tàng thánh thiện nơi Thiên Chúa và mở cõi lòng nhỏ bé nhưng luôn cần Chúa thương xót của ta.