CHỨNG NHÂN NƯỚC TRỜI
Gọi ai đó là chứng nhân khi người ấy làm cho mình tin
một việc, một sự kiện, một biến cố, một thực trạng hay một con người mà mình không
biết, chưa quen hay chỉ biết một cách mông lung, mơ hồ… Vì thế, uy tín của chứng nhân và tính khả tín của chứng cứ rất
quan trọng vì là yếu tố quyết định niềm tin nơi người nghe.
Tin Mừng thứ tư được bắt đầu bằng hình ảnh sống động của
người làm chứng :
« Ông được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông
đến để làm chứng, và làm chứng về Ánh Sáng để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không
phải là Ánh Sáng, nhưng ông đến để làm chứng về Ánh Sáng. Ngôi Lời là Ánh Sáng
thật, Ánh Sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian và thế
gian đã nhờ người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình,
nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin
vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa » (Ga1,
6-12).
Được chọn để làm chứng cho Đức Giêsu là Ánh Sáng muôn
dân (Lux Mundi) đã có mặt trong đời mà
người đời không hay biết, người chứng Gioan đã dõng dạc, hân hoan giới thiệu Đức
Giêsu trước đám đông từ khắp nơi kéo đến xin ông làm phép rửa, vì họ nghĩ ông là
Đấng Cứu Thế, Đấng được Thiên Chúa sai đến để cứu dân.
Ông đã giới thiệu Đức Giêsu là « Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian »
(Ga 1,29). Như thế, Ánh Sáng cứu độ nhân loại mà ông có nhiệm vụ làm chứng cũng
là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh và xoá tội nhân loại. Hai hình ảnh trái ngược, tương
phản trong cùng một con người : Đức Giêsu : Ánh Sáng biểu hiệu của uy
lực, vinh quang, vương quyền và Chiên biểu tượng của yếu đuối, nhỏ bé, tầm thường.
Hai hình ảnh: Ánh Sáng và Chiên, hai bản tính : Thiên Chúa và con người ;
cả hai cùng hiện diện trong Đức Giêsu Kitô.
Tuy được say mến,
suy tôn như thần tượng, nhưng người chứng Gioan không giấu diếm nhân thân của mình :
« Tôi đây làm phép rửa trong nước, nhưng có một vị đang ở giữa anh em, mà
anh em không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi dây giầy cho Người »
(Ga 1,26).
Ông cũng thành thật cho mọi người biết : ông không
biết Đức Giêsu, nhưng Đấng sai ông đến làm phép rửa cho dân Ít-ra- en đã bảo
cho ông biết: « Ngươi thấy Thánh Thần xuống và ngự trên ai, thì người đó
chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần. Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng
Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn » (Ga 1, 33-34).
Gioan Tẩy Giả là nhân chứng về Đức Giêsu, Thiên Chúa làm
người, nhưng không hề biết Đức Giêsu trước.
Ông chỉ làm chứng những gì ông được Thần Khí mặc khải về Đức Giêsu và qua dấu
chỉ « chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người » (Ga 1,32)
Tiếp liền sau trình thuật về người chứng Gioan Tẩy Giả,
Tin Mừng thứ tư kể lại cảnh tượng Đức Giêsu
kêu gọi và chọn các môn đệ đầu tiên (Ga 1,35-43), và họ cũng là những nhân chứng về Ngài :
« Hôm sau, ông Gioan lại đang đứng với hai người
trong nhóm môn đệ của ông. Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói : « Đây là
Chiên Thiên Chúa ». Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu. Đức
Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi : « Các anh tìm gì
thế ? ». Họ đáp : «Thưa Thầy, Thầy ở đâu ? ». Người bảo họ :
«Đến mà xem ». Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người… Ông Anrê,
anh ông Simôn Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức
Giêsu. Trước hết, ông gặp em mình là ông Simôn và nói : « Chúng tôi đã
gặp Đấng Mêsia», rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu… Hôm sau, Đức Giêsu quyết
định đi tới miền Galilê. Người gặp ông Philipphê và nói : « Anh hãy
theo tôi. ».. » (Ga 1,35- 42).
Những môn đệ đầu tiên, hoặc do giới thiệu, hoặc được dẫn
đến, hoặc tình cờ trên đường, tất cả đều được gặp Đức Giêsu, được Ngài mời
« đến mà xem » và kêu gọi đi theo Ngài.
Khác với Gioan Tẩy Giả đã được Thần Khí soi dẫn để nhận
ra Đức Giêsu và làm chứng về Ngài dù không biết Ngài truớc đó, những nhân chứng
- môn đệ tiếp theo Gioan sẽ làm chứng Đức
Giêsu sau khi đã biết Ngài, vì được theo
Ngài, ở với Ngài, lắng nghe Ngài và chiêm ngưỡng Ngài. Lời chứng của các vị sẽ là những lời
chứng sống động của chứng nhân sống động
đã sống kinh nghiệm là môn đệ. Chứng từ của các vị sẽ là những cảm nghiệm rất thực của tình yêu nhập thế, nhập
thể trên da thịt, trong máu xương. Lý chứng
của các vị sẽ gần gũi, thiết tha, thân mật như tấm bánh, ly rượu sẻ chia từng bữa đói no
của những tháng ngày thầy trò chung sống.
Bởi các vị không làm chứng cho một lý thuyết suông, một giáo điều lạnh lùng, một
tôn chỉ cứng nhắc, hay một nguyên tắc bất di bất dịch, nhưng làm chứng một « con
người - Thiên Chúa » đã chết và đã sống lại.
Như thế cả Gioan Tẩy Giả và các tông đồ đều làm chứng
Đức Giêsu vừa là con người vừa làThiên Chúa : Ánh sáng và Chiên, chịu chết
và sống lại, bởi chỉ một mình Thiên Chúa mới là Ánh sáng và tự mình sống lại.
Làm chứng về « Thiên Chúa - Con người » này,
chứng nhân không thể hời hợt, mơ hồ, mông lung, phất phơ, loáng thoáng; cũng không làm theo kiểu
thời vụ, khi được khi không, lúc ẩn lúc hiện, tùy thời, tùy hứng, vì Đức
Giêsu Thiên Chúa chỉ sai đi làm chứng về Ngài những ai đi theo, và ở lại với Ngài
như môn đệ thiết thân của Ngài; vì Thánh Thần Tình Yêu và Chân Lý chỉ soi dẫn và phù trợ những ai
thuộc về Đức Giêsu và được chính Ngài sai đi.
Vì thế, không thể có chứng nhân ở ngoài Thánh Thần như
Gioan đã được Thánh Thần bảo cho biết ai là Đức Giêsu Kitô, Đấng được Thiên Chúa
tuyển chọn; cũng không thể tìm gặp nhân chứng đích thực ở ngoài Đức Giêsu, vì điều kiện tiên quyết để trở thành
nhân chứng của Đức Giêsu chính là gặp gỡ Ngài,
đi theo Ngài, ở với Ngài để yêu mến và trở nên giống Ngài.
Phần I
CHỨNG NHÂN
Trong suốt tập chia sẻ này, chúng ta hiểu hai chữ Chứng Nhân trong ý nghiã chứng nhân Nước Trời, chứng nhân Tin Mừng, chứng nhân Đức
Tin, chứng nhân của Đức Giêsu, chứng
nhân của Thiên Chúa.
1.
Làm chứng đời một « Thiên
Chúa làm người »
Tất cả mọi Kitô hữu b ất
kể người đó là ai, ở vị thế, hoàn cảnh nào đều là chứng nhân của Đức Giêsu, có
trách nhiệm sống Đức Giêsu và giới thiệu Đức Giêsu cho mọi người. Sứ mệnh làm
chứng là sứ mệnh căn bản của ơn gọi Kitô hữu. Chính sứ mệnh này làm cho người
đi theo Đức Giêsu trở thành người có Đức Giêsu, người yêu Đức Giêsu, người mang
Đức Giêsu, người sống Đức Giêsu. Bởi có mang, có yêu có sống, người có Đạo mới
được gọi là Kitô hữu: người có Đức Kitô.
Như thế, chứng nhân của Thiên Chúa, chứng nhân của Nước
Trời, chứng nhân của Tin Mừng, hay chứng nhân của Giáo Hội cũng chỉ làm chứng duy nhất một Đức Giêsu, « Đấng
là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống »
(Ga 14,6), vì không ai đến với Chúa Cha mà không qua Ngài, cũng như ai biết Ngài
là biết Chúa Cha, vì chính Ngài là Thiên Chúa (x. Ga 14,7).
Ngài cũng là Nước Trời, là Đầu Giáo Hội, và người tín
hữu như những chứng nhân sống sẽ “sống và làm chứng” bằng “loan truyền Đức
Giêsu chịu chết, tuyên xưng Đức Giêsu sống lại cho tới khi Ngài đến”. Lời tuyên
xưng long trọng trong thánh lễ đã khẳng định sứ mệnh và nội dung làm chứng của
mọi tín hữu, môn đệ của Đức Giêsu: Làm chứng
về đời Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa - làm người.
Như thế, chứng nhân không làm chứng những sự việc, hay
sự kiện loanh quanh, ngoài vòng, nhưng làm chứng một con người - Thiên Chúa là
Đức Giêsu. Đời Đức Giêsu là đối
tượng duy nhất, là nội dung duy nhất chứng nhân phải làm chứng. Bỏ quên Đức
Giêsu, lẫn lộn Ngài với đối tượng khác, hay loại bỏ Ngài trong lời chứng là tự
mâu thuẫn, tự phản bội chính ơn gọi và sứ mạng làm nhân chứng của mình. Nhiều
người tự nhân là chứng nhân Nước Trời, nhưng không nhắc gì đến Đức Giêsu; có
người hăng say làm chứng về Thiên Chúa, nhưng rất tiếc thiên chúa ấy lại xa lạ với Đức Giêsu; người khác nhiệt tình. Tất
cả những người này đều không làm chứng gì, vì trật đường rầy khi làm chứng, lẫn
lộn, lầm lạc trong chứng từ, nhất là không biết gì về đối tượng mình phải loan
truyền, tuyên xưng, làm chứng. Họ đáng thương hơn đáng trách vì phí phạm thiện chí và nghị lực dấn thân làm chứng
những điều viển vông, mơ hồ, sai lạc.
Vì thế, điều quan trọng hơn tất cả mọi điều quan trọng
là xác tín: đối tượng phải làm chứng, đối tượng phải được giới thiệu, đối tượng
phải được loan truyền và tuyên xưng chính là Đức Giêsu, và chỉ có Đức Giêsu, vì
Ngài là Thiên Chúa làm người, nơi Ngài có
ánh sáng và tình yêu cứu độ.
Khi làm chứng Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người, đã chết
và sống lại, chứng nhân tin, sống và làm cho mọi người sống và tin:
· Đức Giêsu là Tình Yêu cứu độ.
Thế giới loài người, do tội lỗi đột nhập lộng hành đã
làm cho con người trở nên ích kỷ, ghen ghét, hận thù. Người ta không còn nghĩ đến
nhau, nhưng chỉ nghĩ về mình, cho mình. Người ta không hy sinh mình vì người khác,
nhưng hy sinh người khác vì mình. Tai ương, bất hạnh phần lớn do con người thiếu
tình thương yêu nhau. Chính trong thế giới ích kỷ, thù hận này mà Đức Giêsu,
Thiên Chúa Tình Yêu đã đến và cắm lều ở
giữa con người.
Sự chết của Ngài là bằng chứng của tình yêu tuyệt hảo:
“Không có tình yêu nào vĩ đại hơn chết cho người mình yêu” (G 15,13). Sự chết của
Ngài là dấu ấn của tình yêu đến cùng: “Ngài đã yêu những kẻ thuộc về Ngài và
yêu họ đến cùng” (Ga 13,1). Sự chết của Ngài chuộc hết lỗi lầm, tội lụy của
nhân loại : “Một người chết cho toàn dân được nhờ ” (Ga 12,50). “Khi bị treo,
ta sẽ kéo mọi người lên với Ta”.
Khi loan truyền Đức Giêsu chịu chết, các chứng nhân
loan truyền Thiên Chúa là Tình Yêu đã yêu con người đến ban Con một yêu dấu của
Ngài cho thế gian, để chết và chuộc tội cho thế gian được sống. « Tình yêu
cốt ở điều này : không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Ngài
đã yêu thương chúng ta và sai Con của Ngài đến làm của lễ đền tội cho chúng
ta » (1 Ga 4,10).
· Nơi Ngài có sự sống và sự sống lại, vì Ngài là Thiên Chúa.
Không ai không phải chết, vì chết là hậu qủa của tội lỗi.
Đứg trước cái chết, con người thấy mình bất lực và cuộc đời vô nghiã, bởi kết thúc qúa bi đát, phi lý.
Con người có thể không sợ chết vì có thể chết khốn nạn, chết đau đờn, chết không
toàn thây, nhưng sợ những ý nghi về một lần chết vô nghiã và một đời sống hoàn
toàn phi lý khi chết rồi là hết, chết rồi là hư vô, cát bụi.
Để con người không phải sống một đời vô nghiã, và chết
một cái chết phi lý, Đức Giêsu đã đến trong đời người để ban cho con người sự sống
đời đời, để thần chết không còn uy lực tuyệt đối trên con người, để sau cuộc sống
này sẽ nối tiếp một cuộc sống vĩnh cửu, đời đời.
Khi làm chứng Đức Giêsu đã sống lại từ cõi chết, các
chứng nhân giới thiệu Đức Giêsu là Thiên Chúa, vỉ chỉ một mình Thiên Chúa mới tự
mình sống lại và làm sống lại người khác; chỉ một mình Thiên Chúa mới chiến thắng
tội lỗi; chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền trên thần chết, điạ ngục. Từ
trong mồ, Đức Giêsu đã sống lại như lời Ngài đã hứa là lời chứng quan
trọng mà tất cả các chứng nhân phải tuyên xưng, loan báo, vì sự phục sinh của
Ngài là bảo đảm chắc chắn cho niềm tin, sứ mệnh làm chứng và sự sống đời đời,
như thánh Phaolô đã viết:
“Nếu Đức Kitô
không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của
anh em cũng trống rỗng, hão huyền…Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì
đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn ai hết » (1
Cr 15,14.19)
· Đức Giêsu là phần thưởng đời đời:
Cuộc đời khóc nhiều hơn cười, khổ nhiều hơn sướng do hậu
qủa của tội lỗi. Để con người không tuyệt vọng, Đức Giêsu hứa phần thưởng đời đời
cho những ai tin yêu Ngài. Đời khổ đau và cuộc sống lam lũ, vất vả từ nay không
đưa con người vào ngõ cụt vô vọng, nhưng được Đức Giêsu trả công bội hậu, ban
thưởng gấp trăm và dẫn vào hạnh phúc đời đời.
Như thế, chứng nhân không chỉ làm chứng Đức Giêsu đã
chết, sống lại, mà còn làm chứng “Ngài sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét
kẻ sống và kẻ chết. Nước Ngài sẽ không bao giờ cùng”.
Tuyên xưng “Ngài sẽ đến” là làm chứng cuộc sống con
người không kết thúc vô nghiã bằng cái chết vô lý, đời người không vô vị đến độ
sẽ trở về hư không, tương lai con người không sầu buồn, thê lương vì sẽ thành hư
vô, cát bụi; nghiã là sau khi chết sẽ chẳng còn gì.
Đứng trước vấn nạn bi kịch này, câu trả lời của chứng
nhân sẽ là : Cuộc sống con người không vô nghiã vì hướng đến hạnh phúc vĩnh hằng
khi tuyên xưng “Đức Giêsu sẽ đến”.
“Đức Giêsu sẽ đến, Đức Giêsu sẽ trở lại” là lới hứa
tràn đầy hy vọng, là hạnh phúc đời đời đang hình thành hôm nay, là niềm vui vô
cùng đang lớn dần mỗi ngày, là phần thưởng vô giá Thiên Chúa hứa ban trong
vương quốc của Ngài. Sự chết từ nay không còn là đe doạ đáng sợ, là dấu chấm
tuyệt vọng, là kết thúc kinh hoàng; nhưng chết chỉ là một bước đi qua, một nhẩy
vọt từ sự sống chóng qua vào sự sống vĩnh cửu, từ cuộc sống sớm nở tối tàn vào
cuộc sống đời đời, là sự chiêm ngắm Thiên Chúa từ tình trạng như thấy trong
gương sang hiện thực « diện đối diện ». Chết với Đức Giêsu là gặp
Ngài trong vinh quang Thiên Chúa của Ngài. Chết trong Đức Giêsu là chung hưởng
ánh sáng phục sinh của Ngài. Chết cho Đức Giêsu sẽ được thống trị cùng Ngài
trong vương quốc Nước Trời, quê hương hạnh phúc của chứng nhân.
2. Một đời làm chứng:
Vì làm chứng đời của Đức Giêsu, nên
chứng nhân không thể làm chứng trong chốc lát, một lúc rồi thôi, hay vui thì làm,
buồn thì bỏ, hoặc bất mãn, không hài lòng thì quay đầu “phản chứng”. Trái lại,
chứng ấy là chứng một đời, nên phải dài lâu, liên lỷ, toàn diện một đời làm chứng.
Điều đó có nghiã: chứng nhân sẽ làm chứng
về đời Đức Giêsu suốt đời mình, suốt cuộc sống trần gian của mình cho đến khi
nhắm mắt, xuôi tay, khi Đức Giêsu trở lại, bởi ngày trở về của con người là ngày
Chúa đến, giờ chết của mỗi người là lúc Chúa đích thân đến gặp trong vinh quang của Ngài.
Khi “loan truyền Chúa chịu chết và
tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”, mỗi chứng nhân đã tự nguyện hiến
cả đời mình để làm chứng Đức Giêsu và làm chứng cho tới khi Ngài trở lại, tức đến
hơi thở cuối cùng của đời nhân chứng.
Vì thế, làm chứng Đức Giêsu là làm chứng
“suốt đời”, không chỉ suốt đời với thời gian xuyên suốt, mà còn “cả đời” trong
không gian toàn diện, nghiã là ở đâu, đi đâu, trong hoàn cảnh, tình huống nào, ở
vị thế, điều kiện nào, dưới thể chế thuận
lợi hay bất lợi, dễ dàng hay khó khăn, chứng nhân cũng vẫn hăng say làm chứng.
Một đời làm chứng còn là làm chứng bằng
chính cuộc đời. Người làm chứng về Đức Giêsu sẽ không khoanh vùng đời mình, không
giới hạn sinh hoạt cuộc sống mình, không tách biệt từng chiều kích, bình diện của
nhịp sống khi làm chứng Đức Giêsu, nhưng Đức Giêsu chiếm lĩnh toàn diện, bao phủ
toàn thể đời người làm chứng, và họ loan truyền, giới thiệu đời Đức Giêsu với tất
cả niềm vui, nỗi buồn, hạnh phúc, khổ đau, thành công, thất bại, đặc lợi đặc
quyền hay bất công, thua thiệt. Họ không đặt Đức Giêsu ở một góc đời, trong một
khoảng khắc thời gian được định rõ trên thời khoá biểu, nhưng Đức Giêsu là tất
cả với họ và như thánh Phaolô, các chứng nhân sẽ hạnh phúc thốt lên: “Tôi sống
nhưng không phải tôi sống, mà chính Đức Kitô sống trong tôi”.
3. Làm chứng một Thiên Chúa là Tình Yêu:
Đức Giêsu mà chứng nhân làm chứng là
Thiên Chúa Tình Yêu (1 Ga 1,8). Vì tình yêu mà Thiên Chúa ấy đã làm người, chịu
chết và sống lại. Vì tình yêu mà Thiên Chúa ấy đã si mê con người và muốn cứu sống
mọi người, bất kể ai. Vì tình yêu mà Thiên Chúa ấy ở lại với con người đến tận
thế. Vì tình yêu mà Thiên Chúa ấy mời gọi con người làm chứng nhân tình yêu của
Ngài để mọi người được hưởng hạnh phúc của Tình Yêu ấy.
Thực vậy, Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ
để dậy các ông “yêu mến nhau như Thầy đã yêu chúng con” (Ga 15,12), để huấn luyện
các ông “khiêm tốn phục vụ trong yêu thương” (Mt 20, 24-28), để tập cho các ông
biết “hy sinh quên mình và sẵn sàng chết cho người mình yêu” (Ga 15,13) như Ngài sẽ thực hiện trên thánh giá, để các ông
ý thức: chỉ có tình yêu mới có khả năng cứu độ mình và cứu rỗi người khác.
Hình ảnh ngày chung thẩm trong Tin Mừng Mátthêu
đã được chính Đức Giêsu trình bầy tỉ mỉ (x. Mt 25, 31- 46): Khi yêu thương và làm phúc cho những anh em bé nhỏ
nhất là làm cho chính Thầy”. Khi sai các môn đệ đến với muôn dân, Đức Giêsu đã
sai các ông làm chứng cho mọi người ở mọi nơi, mọi thời duy nhất một sứ điệp tình
yêu: Thiên Chúa là Tình Yêu và Ngài yêu
nhân loại đến cùng. Ngài đã đến trong nhà con người, sống giữa con người, chết
như con người để con người được sống và sống dồi dào qua sự phục sinh của Ngài.
Nếu Đức Giêsu, Đấng mà các chứng nhân
phải làm chứng là Tình Yêu và sứ điệp Ngài muốn chứng nhân loan báo cũng là sứ điệpTình
yêu thì chắc chắn những chứng nhân của Ngài không thể làm khác hơn là loan báo
Thiên Chúa Tình Yêu và sứ điệp Yêu Thương của Ngài cũng bằng đời sống yêu thương,
qua ngôn ngữ yêu thương, với cung cách yêu thương, trong tâm tình yêu thương. Nói
cách khác, chứng nhân , tức môn đệ của Đức Giêsu phải làm chứng Đức Giêsu là Tình
Yêu bằng sống yêu thương như Ngài, bởi “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ của Thầy là chúng
con yêu thương nhau” (Ga 13,35).
Làm cho người khác nhận ra chính xác người
mình làm chứng, chấp nhận tin yêu người mình rao giảng, chân nhận Đấng mà mình
loan báo, đó là mục tiêu của người làm chứng. Và Đức Giêsu đã chỉ cho các chứng
nhân của Ngài cách thế hữu hiệu để đạt mục đích này. Đó là “Yêu Thương”. Theo
Ngài, sẽ không có cách nào hay hơn, tuyệt vời hơn, mang lại nhiều kết qủa bằng
sống yêu thương, và suốt những năm sống làm người, Ngài đã chỉ say mê mời gọi các
môn đệ, và mọi người sống yêu thương: yêu Thiên Chúa và thương người cùng sống.
Tóm lại, sứ mệnh loan báo Tin Mừng là
làm chứng Đức Giêsu Kitô - Thiên Chúa Tình yêu, Đấng đã đến cư ngụ giữa con người
để yêu thương, cứu độ con người. Vì Thiên
Chúa là Tình Yêu, nên lời chứng sẽ chỉ có giá trị, và sức thuyết phục nếu chứng
nhân sống giới luật yêu thương như Đức Giêsu đã ân cần căn dặn: Người ta cứ dấu
này mà nhận biết chúng con là môn đệ, chứng
nhân của Thầy là “chúng con có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
Phần II
ĐỂ
TRỞ THÀNH CHỨNG NHÂN ĐÍCH THỰC
Không phải chứng nhân nào cũng làm chứng
đúng, làm chứng hữu hiệu. Có những chứng nhân giả, những chứng nhân làm chứng
sai, làm chứng thiếu sót, làm chứng hời hợt, làm chứng cẩu thả, làm chứng trái
ngược sự thật, méo mó dung mạo người phải làm chứng, sai lệch sứ điệp phải loan
báo, rao truyền. Đức Giêsu đã chẳng cảnh báo các môn đệ của Ngài về tình trạng
chứng nhân “phản chứng” đáng ngại này sao?
“Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt,
vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: “Chính ta đây và “Thời kỳ đã đến
gần”; anh em chớ có theo họ” (Lc 21, 8).
Họ có thể nói rất hay, nhưng điều họ
nói không đem lại ơn đổi mới. Họ có thể nói rất nhiều, nhưng không thuyết phục,
vì không sống điều mình nói. Họ có thể trình bầy nhiều kiến thức, nhưng không làm
chứng về một con người. Họ có thể tỏ ra hiểu biết, nhưng không toả sáng yêu thương.
Họ có thể lý luận chặt chẽ, nhưng lỏng lèo cảm nghiệm. Họ trình bầy nhiều sáng
kiến, giầu tưởng tượng, nhưng nghèo hy vọng, thiếu niềm tin. Họ có thể nắm vững
lý thuyết, nhưng trống rỗng tinh thần và kệch cỡm vì tri - hành bất nhất.
Trong Tin Mừng Matthêu, Đức Giêsu đã
nặng lời trách móc, lên án những kinh sư và Pharisêu giả hình, bôi bác, trịch
thượng, kiêu căng, buôn thần bán thánh, bất lương. Những người này là hình ảnh
của những chứng nhân “phản chứng” đã lợi dụng vị thế chứng nhân và nhân danh Đức
Giêsu để làm ô uế dung mạo của Ngài khi chống lại con người, làm tổn thương con
người, vi phạm quyền sống của con người.
Họ là những chứng nhận giả hiệu, giả hình, giả dối, giả dạng mà chính Đức Giêsu
đã vạch mặt, lên án (x. Mt 23)
Đức Giêsu không mong đợi những chứng
nhân kiểu này. Ngài cần những chứng nhận đích thực biết mau mắn đi theo, kiên
trì ở lại, chăm chú lắng nghe, và tin yêu ngước nhìn một mình Ngài, bởi chính
Ngài sẽ đích thân huấn luyện họ theo giáo trình riêng, rất đặc biệt của Ngài:
1. Trưởng thành nhân bản:
Hơn ai hết, chứng nhân phải là người
trưởng thành trong đời sống nhân bản. Họ phải được nhận là người tử tế, đáng
tin cậy, có trách nhiệm, đạo hạnh, bởi người ta cần họ, cần con người đức độ của
họ để tin được những gì họ nói, tin vào con người họ làm chứng. Họ cần uy tín để
bảo kê cho điều họ loan báo, cho con người họ giới thiệu, cho chân lý họ làm chứng.
Các thánh tử đạo là những mẫu gương chứng nhân tuyệt vời ấy khi lấy chính mạng
sống mình làm chứng cho điều mình tin, cho người mình yêu, cho sự thật mình làm
chứng.
Để là người trưởng thành, người ta cần
được trang bị những đức tính tốt làm nền cho đời sống con người. Thiếu những đức
tính nền tảng, người ta không thể sống xứng danh con người, và trong đời thường,
danh hiệu “người tử tế” được dùng để chỉ những người có đời sống trưởng thành
nhân bản gương mẫu.
Người tử tế được hiểu là người sống tốt
như nhân vị, nhân phảm, nhân cách đòi hỏi; có nghiã là sống xứng đáng một con
người. Người sống xứng đáng danh phận người là người có nhân nghiã, có đức độ,
có lương tâm, là người thực hành những đức tính căn bản như công bằng, chính trực,
vị tha, hiếu thảo, trung tín, thành thật trong đời sống.
Đức Giêsu không hủy bỏ hay miễn trừ đời
sống nhân bản nơi những chứng nhân của Ngài. Giáo Hội theo ý muốn của Chúa cũng
rất thận trọng trong việc tuyển chọn các chứng nhân Tin Mừng. Các linh mục, chủng
sinh, tu sĩ, giáo lý viên để được trao phó tác vụ trước hết và trên hết đều phải
đáp ứng điều kiện tiên quyết là đạo đức làm người. Thiếu những đức tính căn bản
của con người, ứng viên không thể đón nhận tác vụ để trở thành chứng nhân phục
vụ Giáo Hội, vì đời sống siêu nhiên phải
được xây trên đời sống nhân bản là nền móng vững chắc để không lung lay, sụp đổ
thảm hại.
Tóm lại, chứng nhân phải có một đời sống
nhân bản trưởng thành, nghiã là có những đức tính làm người tử tế: là người tốt
của cuộc đời trước khi là chứng nhận đích thực của Nước Trời.
a.
Đa số các
tông đồ là ngư phủ, dân chài.
Để nhận ra chứng nhận là ai, không gì
chính xác hơn là nhìn vào các tông đồ là những chứng nhân của Nước Trời đã được
Đức Giêsu huấn luyện.
Thánh Matthêu tường thuật rất kỹ cuộc
kêu gọi các môn đệ đầu tiên. Các Tin Mừng nhất lãm đều tường thuật cuộc tuyển
chọn này:
« Người đang đi dọc theo biển hồ
Galilê, thì thấy hai anh em kia, là ông Simôn , cũng gọi là Phêrô và người anh
là ông Anrê, đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. Người bảo
các ông: « Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.
Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người. Đi một quãng nữa, Người thấy hai
anh em khác con ông Dêbêđê, là ông
Giacôbê và người em là ông Gioan. Hai ông này đang cùng với cha là ông Dêbêđê
vá lưới ở trong thuyền. Người gọi các ông. Lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại
mà theo Người » (Mt 5, 18- 22 ; x. Mc 1, 16-20 ; Lc 5, 1-11).
Tại sao Đức Kitô lại chọn phần đông
các tông đồ là những người chài lưới ?
Các nhà chú giải đã đồng ý: Đức Kitô
đã cố ý chọn các tông đồ từ giai tầng chài luới, đánh cá:
· Qua tường thuật: chọn các môn đệ đầu tiên bên biển hồ
(Mt 5,18-22). Galilê không chỉ có biển hổ, mà còn vùng đất trồng trọt,
buôn bán và Ngài đã gặp nhiều người ở các tầng lớp xã hội khác nhau, chẳng hạn
người thanh niên giầu có (Mt 19,16-22)
· Nhiều trình
thuật cho thấy phần đông nhóm 12 là ngư phủ :
-
Trình thuật sai Mười Hai Tông đồ đi giảng, trong đó kể
tên các tông đồ : « Sau đây là tên của mười hai Tông Đồ : đứng đầu là
ông Simôn cũng gọi là Phêrô, rồi đến ông Anrê, anh của ông ; sau đó là ông
Giacôbê, con ông Dêbêđê và ông Gioan, em của ông ; ông Philipphê và ông
Batôlômêô ; ông Tôma và ông Matthêu người thu thuế ; ông Giacôbê con
ông Anphê và ông Tađêô ; ông Simôn thuộc nhóm Qúa Khích, và ông Giuđa
Ítcariốt, là chính kẻ nộp Người… » (Mt 10,2-4). Ta thấy chỉ có ba tông đồ
là Matthêu , người thu thuế, Simôn thuộc nhóm Quá Khích và Giuđa Ítcariốt, người
nộp Đức Giêsu là được kể rõ nghề nghiệp, và chính kiến. Sự kiện này nói lên đa
số còn lại thuộc hàng ngũ dân chài đã được gọi trên bờ biển. (x. Mc 3,13-19 ; Lc
6,12-16).
-
Trình thuật Đức Kitô dẹp sóng gió Mc 4, 35- 41 « Hôm ấy, khi
chiều đến, Đức Giêsu nói với các môn đệ : « Chúng ta sang bờ bên kia
đi !». Bỏ đám đông ở lại, các ông chở người đi, vì Người đang ở sẵn trên
thuyền… ».
Các môn đệ phải là dân chài mới có sẵn
thuyền và mới biết chèo thuyền để đưa Ngài qua bờ bên kia (x. Mt 8,23-27 ;
Lc 8,22-25).
· Nhiều lần Đức Kitô hiện ra sau khi sống lại bên bờ biển với
các tông đồ : Ga 21, 1-14 : Đức Kitô hiện ra với các ông khi các ông đánh
cá và đã ban cho các ông mẻ cá lớn. Điều này nói lên
-
Các tông đồ thường gặp nhau ở bờ biển, vì phần đông làm nghề đánh
cá.
-
Bờ biển là nơi Đức Kitô thường đến gặp các ông.
Quan trọng trong trình thuật này là Ngài cho các ông
thấy bắt các linh hồn cũng như đánh cá, nghiã là cũng phải vất vả ra khơi, thức
đêm quăng lưới, nhưng khác với đánh cá, đó là thành qủa bắt các linh hồn hoàn
toàn tùy thuộc vào thái độ tin tưởng của người tông đồ nơi một mình Chúa. Thái
độ : « Vâng lời Thầy, con thả lưới » của Phêrô đã dẫn đến trình
thuật tiếp theo ở đó Đức Giêsu hỏi Phêrô « Có yêu Ngài không» và trao cho
ông quyền chăm sóc đàn chiên của Ngài (x.Ga
21,15-17).
b. Dân chài có những đức tính gần với đòi hỏi của chứng nhân :
Đức Kitô đã không vô tình chọn phần đông các tông đồ từ
đám dân chài :
· Tinh thần tự thoát khỏi ràng buộc vật chất:
Ngư phủ ra đi không có gì hết và cũng không biết sẽ được
gì khi trở về, vì đàn cá lớn nhỏ đâu có thuộc về ông. Bằng chứng là các tông đồ
xuất thân từ nghề biển đã than thở :
« Đánh suốt đêm mà chẳng được con nào » (Ga 21, 3). Đàng khác, các
ông đâu có biết chỗ nào có cá, chỗ nào không ; cũng chẳng đoán được lúc
nào đàn cá bơi qua.
Cá trong biển thì vô số, nhưng không thuộc quyền sở hữu
của người đánh cá. Chẳng có gì thuộc về họ, cũng chẳng có gì được
gọi là chắc chắn sẽ có.
c. Phó thác, cậy trông:
Thuyền đánh cá như chiếc lá nhỏ giữa mênh mông vô tận
của trời và nước. Họ thấy mình rất bé nhỏ, mong manh, dễ chết vì sóng lớn, gió
to, nắng cháy da khát cổ. Ngư phủ thực sự bé nhỏ, yếu đuối, mong manh
giữa bao la, vô tận của trời và đại dương. Họ có thể ra đi không trở về, và mất xác trong sóng biển, đại dương.
d. Sống giây phút hiện tại :
Họ không tích
trữ cá như nông dân trữ luá trong kho lẫm, nhưng cập bờ là cá phải bán ngay cho người đến mua trên
bãi, nếu không cá ươn thối ngay. Họ không tích trữ để bảo đảm ngày mai, mà chỉ
sống từng ngày, từng giây phút hiện tại.
e. Khiêm tốn
Vì không làm chủ được điều gì : cá thì không biết
được hay không, nhiều hay ít ? ; sóng lớn, gío to, thuyền nhỏ nên không biết
có về bến bình an ? ; không tích trữ, nên không biết ngày mai sẽ đói, no
thế nào ? Chính vì thế, dân chài
khiêm nhường, không kiêu hãnh, tự phụ. Bởi người ta chỉ tự phụ, kiêu hãnh khi
không cần ai, và dư thừa, đầy đủ.
f. Lạc quan, yêu đời :
Vì không bon chen, tranh giành, ma giáo nên tâm hồn
thư thái, vui tươi. Người dân chài rất hào sảng và lạc quan, yêu đời.
Chính vì không có gì, không tích trữ được gì, bé nhỏ
giữa đại dương mà họ luôn bám víu vào Trời, ký thác đời mình vào Trời, cầu khẩn
với Trời để Trời thương gìn giữ, Trời thương
cho nhiều cá, Trời thương cho đi về an toàn. Tóm lại, người đánh cá có :
· Tinh thần khiêm tốn, phó thác ở Thiên Chúa hơn những
người khác
· Tinh thần tự thoát, khó nghèo.
· Tâm hồn đơn sơ, quảng đại, thông thoáng, cởi mở, bao dung vì quen sống với mênh mông, bao la của Trời và Biển.
· Thái độ lạc quan, vui vẻ : Người đánh cá, vì không nặng
lòng với mưu mô, thủ đoạn; không mệt trí, bận tâm bởi bon chen, tranh giành ;
không mất ăn mất ngủ vì tham vọng, ích kỷ
nên tâm hồn nhẹ nhàng, thư thái, yêu cuộc sống, qúy thiên nhiên, và thương mọi
người. Họ là người hạnh phúc vì tâm hồn bình an và niềm vui bình an luôn rạng rỡ
trên môi mắt và trong cuộc sống.
Và đó cũng là những
đòi hỏi của người đi theo Đức Kitô :
a. Khó nghèo,
tự thoát khỏi vật chất : Nhờ không vướng mắc, bị ràng buộc
vật chất như người thanh biên giầu có, các tông đồ đã dễ dàng « bỏ mọi sự
mà theo Đức Giêsu ». Cũng có thể lúc đầu các ông muốn đi theo Đức Giêsu, đấng
đang được nhiều người ngưỡng mộ, khâm phục và tôn là Đấng Cứu Thế để được đổi đời,
vì nghèo.
- « Bỏ mọi sự mà theo tôi…Con
cáo có hang, con chim có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu. » (Lc
9,58) (x. Mt 8,19-22).
- « Anh em hãy ra đi, đừng mang
theo túi tiền, bị gậy, giầy dép… » (Lc 10,4)
b. Quảng đại :
« Vào bất cứ nhà nào, hãy chúc họ bình an» (Lc 10,5). Chúc bình an là ban tặng món quà lớn nhất, đẹp nhất vì bình
an chính là Hạnh Phúc. Làm người là mong đạt hạnh phúc, nên khi đem đến hạnh phúc
cho ai là Yêu thương họ rất nhiều, vì tình yêu là « thao thức, ước mong và
mưu tìm, kiến tạo hạnh phúc cho người khác ». Người quảng đại là người rộng
rãi trao ban hạnh phúc cho tha nhân bằng tư tưởng, lời nói, hành động làm thai
nghén, phát sinh, phát triển niềm vui, bình an, hạnh phúc.
c. Đơn sơ, cởi
mở, hoà mình : « « Ai cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng
thức ấy » (Lc 10,7). Ăn uống là cách dễ nhất để đánh giá một con người.
Người đạo đức, bác ái không đòi hỏi chủ nhà những món ăn riêng, những « cao
lương mỹ vị », nhưng luôn tế nhị,
nhìn thấy những khó khăn của gia chủ, như Đức Mẹ trong tiệc cưới Cana đã nhìn
thấy chủ nhà hết rượu …
d. Vui vẻ, lạc
quan vì tin tưởng ở Thiên Chuá quan phòng
Vui vẻ, lạc quan biểu hiện tâm hồn bình an. Có bình an
là do ký thác và hy vọng tuyệt đối ở Đấng toàn năng có quyền trên tất cả mọi loài,
mọi sự.
Vì có Chúa là gia nghiệp, « vì tên anh em đã được
ghi trên Trời » (Lc 10,20), các chứng
nhân luôn vui với niềm vui của Tin Mừng cứu độ. Họ là những chứng nhận hạnh phúc của Hiến chương
Nước Trời : « Phúc cho anh em là những người nghèo khó, buồn sầu, khóc
lóc bị bỏ rơi, bị bách hại… Anh em sẽ được Thiên Chúa lau khô nước mắt, cho đất
làm gia sản, cho Nước trời làm phần thưởng » (x. Mt 5, 1-12).
Họ không rao giảng Tin Mừng bằng bộ mặt đưa đám,
« mất sổ gạo », không công bố Tin Vui cứu độ với dáng dấp người bi
quan, tuyệt vọng, can kiệt sức sống, tình yêu. Trái lại, họ vui vẻ, lạc quan, hào
sảng để Tin Mừng đừng biến dạng thành tin buồn, tin dữ, tin sét đánh.
Như thế, căn bản của đời sống siêu nhiên vẫn luôn là đời
sống nhân bản : từ « ngư phủ lưới
cá biến thành chứng nhân lưới người », để không thể trở thành chứng nhân thánh thiện nếu đã không là người
tử tế ; bởi nhờ những đức tính nhân bản mà người tông đồ đáp ứng dễ dàng và
trọn vẹn những đòi hỏi của đời tận hiến.
2.
Đi theo một mình Đức Giêsu
Thánh Phaolô đã xác tín : đi theo một mình Đức Giêsu
mà thôi, vì « nơi Ngài, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ
thể, và trong Ngài, anh em được sung mãn : Ngài vốn là Đầu mọi quyền lực
thần thiêng » (Cl 2,9 -10). « Vì thế, anh em hãy bén rễ sâu và xây dựng
đời mình trên nền tảng là Đức Giêsu Kitô, hãy dựa vào Đức Tin mà anh em đã được
thụ huấn, và để cho lòng chan chứa niềm tri ân, cảm tạ » (Cl 2,7). Phaolô
còn nhấn mạnh : « Hãy coi chừng, chớ để ai gài bẫy bằng những triết lý,
tư tưởng rỗng tuyếch theo người phàm, chứ không theo Đức Kitô » (Cl 2,8). Đi
theo một mình Đức Giêsu đối với Phaolô là mục đích duy nhất, không gì có thể
thay thế được của chứng nhân.
Chứng nhân đi theo một mình Đức Giêsu vì Đức Giêsu
đích thân và đích danh gọi từng người. Tiếng gọi của Ngài không mông lung, bàng
bạc, xa xôi, mơ hồ, bất định, nhưng mang tính cá nhân, riêng biệt, đặc thù, có
tên tuổi, lý lịch, hoàn cảnh chính xác, như Ngài gọi tên Simon, con ông Gioan,
nghiã là rõ ràng đến cả nguồn gốc, tông chi, họ hàng…
Đi theo Đức Giêsu và chỉ một mình Đức Giêsu mà thôi, để
đời làm nhân chứng không bị lẫn lộn với
chỗ đứng xã hội, nghề nghiệp.
Đi theo một mình Đức Giêsu để chứng nhân không lạc hướng vào tham vọng quyền
lực để trở thành người được trọng vọng, tôn kính, ăn trên ngồi trước, có một đời
sống vật chất được bảo đảm.
Đi theo một mình Đức Giêsu để người loan báo Tin Mừng
không biến chất thành một đời tù hãm trong những bon chen, kèn cựa, tranh giành
ngôi vị, chức tước, quyền bính, ảnh hưởng thế lực.
Đi theo một mình Đức Giêsu để người tông đồ không trở
thành kẻ buôn thần bán thánh, lợi dụng lòng tin đơn sơ, và lòng quảng đại không
giới hạn của tín hữu để vinh thân phì gia, tạo cho mình những pháo đài của cải,
quyền lực.
Nhưng theo Đức Kitô, và một mình Đức Kitô để chứng nhân không mất hướng Sự Thật, Sự Sống,
Bình An, vì Đức Giêsu là « Đường, Sự Thật, Sự Sống và Bình An thật ».
Và
hành trình đó là:
· Thao thức và
ước mơ như Ngài :
« Lậy Cha, xin cho danh Cha cả sáng, Nước
Cha trị đến, ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên Trời » (Mt 6,9-10).
Đó là thanh gỗ thẳng của thập giá khi hướng
lên Chúa Cha.
· Hành động như Ngài:
« Thầy đến để thực thi thánh ý của Cha Thầy ».
Vâng lời và thực hiện thánh ý là việc làm của Đức Giêsu. Suốt cuộc đời của Ngài
là vâng phục và làm theo thánh ý Chúa Cha.
Bài sai của Chúa Cha gửi Đức Giêsu có
ghi rõ điạ điểm: Golgotha, nhiệm vụ: chịu chết, sứ mạng : cứu độ nhân loại.
Các chứng nhân cũng phải hành động
như Đức Giêsu khi nhận bài sai: « Con
Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng
sống làm giá cứu chuộc mọi người» (Mc 10,45)
Các chứng nhân nhận cùng bài sai của Đức Giêsu, vì chứng nhân
được Ngài nhận là bạn, « vì tất cả
những gì Thầy nghe được nơi cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết » (Ga 15,15)
hầu chia sẻ với Ngài sứ mạng phục vụ, và
hiến mình cứu chuộc nhân loại của Ngài. Chứng nhân không nhận một phần ba, một
phần mười hay một phần trăm sứ mạng, nhưng toàn phần sứ mạng như Đức Giêsu
trong thề giới hôm nay, vì môn đệ - chứng nhân là bản chụp của Đức Kitô khi trở thành « hiện
thân sống động của chính Đức Kitô »; bởi « Người ta cứ dấu này mà nhận
biết chúng con là môn đệ Thầy» (Ga 13,35) ; nói cách khác, người ta sẽ nhận
ra Thầy qua chúng con, vì Thầy với trò là một, nên Đức Kitô với chứng nhân của
Ngài không khác nhau.
Trong mọi hoàn cảnh, tình huống, Đức
Giêsu đều lấy thánh ý Chúa Cha làm tiêu chuẩn, mục đích và không làm gì ngoài
thánh ý Cha mình: « Lậy Cha, xin đừng
theo ý con, nhưng xin theo ý Cha » (Mt 26,39), người làm chứng Đức Giêsu trong
đời mình cũng không thể từ chối thánh ý được thể hiện qua ý muốn, và quyết định
của Bề Trên, nếu bài sai ấy không vừa ý, không thuận lợi.
Như thế, đi theo Đức Kitô, người tông
đồ phải ôm lấy Thánh Giá mà thao thức, ước mơ Thánh Ý là thanh gỗ dọc
và vâng lời phục vụ, hiến mình cho tha
nhân là thanh gỗ ngang. Nói cách khác, hành trình thánh giá chính là thao thức,
ước mơ thánh ý của Chúa Cha và thực hiện thánh ý khi yêu thương, hiến mình phục
vụ con người. Đó là ý nghiã câu Tin Mừng : « Ai muốn theo Ta hãy bỏ
mình vác thánh giá mà theo Ta » (x Mt 16,24-28 ; Lc 9,23-27 ; Mc
8,34-36).
3. Ở với Đức
Giêsu :
Nhiều người đi theo Đức Giêsu nhưng
không muốn ở lại với Ngài; bằng chứng là rất đông người đã đi theo Đức Giêsu,
nhưng chỉ có nhóm Mười Hai đã ở lại và sống với Ngài.
Đám đông ấy đã có những người đi theo
vì hiếu kỳ, tò mò; đi theo vì có chút cảm tình; đi theo vì a dua, hoặc được người
khác rủ rê; cũng có người đi theo để khích bác, phê bình, châm chọc, bôi bác, hạ
uy tín Đức Giêsu như các ông Biệt Phái.
Thế giới hôm nay cũng vẫn là đám đông
ấy, và thành phần đám đông cũng không khác ngày xưa trên đất Palestine cách đây
hơn hai ngàn năm. Trong số những người này có các giám mục, linh mục, tu sĩ,
giáo lý viên, giáo dân là những tông đồ của thế kỷ hai mươi mốt, những người
Chúa Cha đã trao ban cho Đức Giêsu và đã được Đức Giêsu cầu nguyện cho :
« Lậy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con
cũng ở đó với con để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà
Cha đã ban cho con vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành» (Ga
17,24).
Nếu Đức Giêsu đã tha thiết cầu nguyện
cho người thuộc về Ngài ở mãi với Ngài thì « ở với Ngài » ắt phải là
nhu cầu cấp bách, là điều kiện không thể thiếu và là đảm bảo chắc chắn.
a.
Là nhu cầu cấp
bách của tình yêu luôn hối thúc :
Đức Giêsu yêu người Ngài chọn và muốn
được hiệp nhất nên một với người Ngài yêu.
Tình yêu luôn đòi gần gũi, kết hiệp,
hợp nhất. Không ai yêu mà muốn xa người mình yêu. Như Chúa Cha yêu Chúa Con đã
kết hiệp nên một và Thánh Thần là kết qủa của Tình Yêu vô cùng của Cha và Con,
người thuộc về Đức Giêsu cũng được mời gọi ở lại trong tình yêu của Đức Giêsu để
nên một với Ngài trong Tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa : « Con không
chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin
vào con, để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở
trong chúng ta » (Ga17,20-21)
Người làm chứng Đức Giêsu là người ở lại trong tình yêu Đức
Giêsu : « Hãy ở lại trong tình yêu Thầy » (Ga 15,9), vì chỉ ở lại
trong trái tim của nhau, người ta mới thuộc về nhau trọn vẹn và mãi mãi. Ở
trong trái tim Đức Giêsu là gắn bó thiết tha, chia sẻ tận tình, tận cùng sống
chết với Ngài và để đời sống mình được biến đổi thành đời sống của chính Đức
Giêsu như giọt nước tan trong chén rượu để không còn là nước nữa, nhưng được hoàn
toàn biến đổi thành rượu.
b.
Ở lại với Đức
Giêsu là điều kiện không thể thiếu của sứ mệnh truyền giáo :
Tông đồ là người « loan truyền
Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến ». Tông đồ
loan truyền và tuyên xưng bằng chính đời sống của mình, nghiã là lấy đời mình
ra để làm chứng điều mình tuyên xưng, dùng
kinh nghiệm sống của mình để minh chứng điều mình loan truyền, đem cảm
nghiệm chân thực và niềm xác tín mãnh liệt, sâu sa của mình để thuyết phục. Vì
thế, điều chứng nhân nói về Chúa phải
là điều người ấy đã nói với Chúa trước
đó ; điều nhà truyền giáo rao giảng phải là điều người này đã trải nghiệm
trong qúa trình đi theo và ở với Đức Giêsu ; điều Linh Mục, chủng sinh, tu
sĩ, giáo lý viên chia sẻ với con chiên, bổn đạo, người khác phải là điều các vị
đã sống và thấm thiá trên từng đường gân, thớ thịt ; và khổ đau các chủ
chăn muốn tỏ ra đồng cảm với đàn chiên cũng phải là đau khổ các vị đã quay quắt trong ruột
gan và xót xa trên khoé mắt của những đêm dài không ngủ. Có như thế, lời chứng
của các vị truyền giáo, lời huấn đức của các thầy giúp xứ, bài giáo lý của giáo
lý viên, “câu chuyện đạo đức dưới cờ” của các vị lãnh đạo tinh thần mới có sức
thuyết phục và thay đổi lòng người.
Nhưng để đạt được điều này, người đi
theo Đức Giêsu phải ở lại với Ngài, phải lang thang, dong duổi với Ngài, phải
buị bờ ăn ngủ với Ngài, phải đến dự tiệc cưới Cana, cũng như phải vào vườn Cây
Dầu, lên Giêrusalem và chịu đóng đinh với Ngài.
Ở với Đức Giêsu không có nghiã là ghé thăm ăn
cơm với Ngài rồi về, hay qua loa vài câu chuyện, uống ly càphê cho ấm môi, ấm bụng
rồi nhà ai nấy ở, đường ai nấy đi ;
trái lại, ở với Đức Giêsu là thuộc về Ngài trọn vẹn, ở với Ngài từng phút giây cuộc
đời và không bao giờ rời xa Ngài dù là đêm đen Ghết-sê- ma-ni hãi hùng, toà án
Philatô bất công, roi sắt, mạo gai rợn người, thập giá lê gót nặng nề hay chiều buồn hấp hối Golgotha.
· Chứng nhân phải ở với Đức Giêsu để thế gian nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa :
« Con ở trong họ và Cha ở trong
con, để họ được hoàn toàn nên một ; như vậy thế gian sẽ nhận biết là chính
Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con » (Ga 17,23). Vì
thế, nếu nhà truyền giáo không ở với Đức Giêsu thì công việc truyền giáo của họ
sẽ vô ích, bởi không ai sẽ nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa qua lời rao giảng,
và hành động làm chứng của họ, chỉ vì trong họ « thiếu Đức Giêsu ».
· Chứng nhân phải ở với Đức Giêsu để sinh nhiều hoa trái thiêng liêng cho các
linh hồn :
Vì công việc thánh hoá người khác, biến đổi
tâm hồn, hoán cải người tội lỗi là công việc của Thiên Chúa, cần ơn Chúa, chứ không hệ tại ở khả năng
của con người, dù người đó thông thái, đạo hạnh đến đâu. Lý do: « Không có
Đức Giêsu -Thiên Chúa, nguồn ơn sủng » ở với họ, vì họ không ở lại với
Ngài:
« Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở
lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không
gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy. Thầy là cây
nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người
ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được » (Ga
15,4-5).
c.
Ở lại với Đức
Giêsu là bảo đảm chắc chắn cho lời cầu xin:
Chứng nhân là người cầu nguyện: cầu
nguyện cho mình và những người cho họ, vì họ mình đang làm chứng , như Môsê đã
không ngừng lên núi thân thưa, tâm sự với Giavê Thiên Chúa về mọi người, mọi sự
việc và chi tiết tình hình, sinh hoạt của dân trong sa mạc.
Người môn đệ Đức Giêsu cũng là người
được mọi người xin cầu nguyện, nhờ năn nỉ, “nói khó” với Chúa. Họ là trung
gian, gạch nối, nhịp cầu, máng thông ơn giữa Thiên Chúa và loài người. Đời họ một
đầu được cắm sâu vào Thiên Chuá, đầu kia ăn rễ trong nhân loại.
Vì thế, chứng nhân sẽ không làm được
nhiệm vụ “cầu thay nguyện giúp” cho người khác, nếu quên cắm đời mình vào đời
Chúa, quên gắn tim mình vào tim Chúa, quên cột chặt đời mình vào đời Chúa. Chính
Đức Giêsu đã minh định: để lời cầu nguyện
được bảo đảm hữu hiệu, người đi
theo Đức Giêsu phải ở lại và kết hiệp nên một với Ngài là nguồn mạch mọi ơn sủng:
“Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời
Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý” (Ga 15,
7).
“Ở lại trong Thầy” là điệp khúc được
nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong chương 15 của Tin Mừng theo thánh Gioan khi Đức
Giêsu tâm sự với các tông đồ trước khi lên đường chịu khổ nạn. Ở vào giây phút
trọng đại và bi hùng trước khi rời xa các môn đệ Ngài yêu, Đức Giêsu đã thiết
tha nhắc nhở các vị: “Hãy ở trong tình yêu của Thầy”. Điều này nói lên tính cách
rất quan trọng của việc “ở lại trong Chúa” đối với những ai muốn làm môn đệ Ngài.
Ở lại trong Chúa tức là sống đời sống
của chính Đức Giêsu: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà chính Đức Kitô sống
trong tôi” (Gl 2,20).
Ở lại trong Chúa, các chứng nhân sẽ không phân tâm bởi những việc trần thế “không đâu” nặng thói đời như tìm lời khen, kéo
phe cánh, kiếm ảnh hưởng, lôi cuốn người hâm mộ, gây phong trào để nổi tiếng.
Ở lại với Đức Giêsu, các môn đệ Đức
Giêsu sẽ không phân biệt thất bại với
thành công, vì thành công hay thất bại cũng thuộc về Chúa, cũng đều do ý Chúa
muốn, bởi một khi đã gắn bó với Chúa, đã nói với Chúa về công việc của mình sắp
làm, đang làm, đã làm rồi, các vị bình an phó thác tất cả trong tay Chúa, và chẳng
màng gì đến thành công với tiếng khen, lời
tuyên dương, chúc tụng; cũng như không bận tâm đến sơ sót, khiếm khuyết, thất bại
với tiếng chê, chỉ trích, phê bình vì “tôi tớ vô ích đã làm hết sức điều chủ muốn”.
Ở lại trong Đức Kitô, nhà truyền giáo
sẽ không phân chia, phân rẽ, phân luồng người khác thành nhóm này, phe nọ; người
giầu, kẻ nghèo; gia đình bề thế với đám khố rách áo ôm; ông cố, bà cố có con làm
cha, làm nữ tu với những người bị coi là
khô khan, rối rắm; đạo gốc và tân tòng; cư dân và di dân…Nhưng trở nên “Tất cả
cho mọi người trong Đức Kitô – Omnia omnibus in Christo”; bởi có Đức Kitô trong
lòng, có Đức Kitô là lẽ sống và nguồn sống, các chứng nhân sẽ gặp gỡ, yêu thương,
phục vụ được tất cả mọi người trong cùng một tình yêu là Đức Kitô.
Ở lại với Đức Giêsu, người được sai đi
sẽ không kinh hãi ai, hay lo sợ gì, dù người đó là ai đi nữa và sự dữ có lớn
lao, nguy hiểm đến thế nào; vì có Thiên Chúa ở cùng và ơn bình an của Thiên Chúa
bao phủ. Sự sợ hãi, nghi ngại là dấu hiệu của thiếu lòng tin và sa sút niềm cậy
trông, hy vọng nơi Chúa. Đừng để sợ hãi chiếm đóng tâm hồn. Đừng để nghi ngại đóng
chốt trái tim. Hãy buông lỏng đời mình trong
lòng thương xót của Đức Giêsu. Hãy thả nổi
đời làm chnứg Tin Mừng Nước Trời trong trái tim giầu bao dung, nhân hậu, ờ đó Đức
Giêsu sẽ đổi mới tất cả, thánh hoá tất cả, cả những yếu đuối, tội lụy đáng thương,
kinh tởm nhất.
Khi chia sẻ với nhau về lý tưởng thánh
thiện phải đạt của đời chứng nhân, chúng ta không tránh được cảm tưởng “sẽ khó
có thể thực hiện được”, và bàng bạc ý nghĩ cho điều đó là ảo tưởng.
Tin Mừng chúa nhật “Lòng Chúa Thương
Xót” đã kể lại chuyện Tôma khi ông gián
tiếp cho là ảo tưởng, ảo giác, ảo mộng điều mà các anh em tông đồ khác đã qủa
quyết: “Chúng tôi đã thấy Thầy” (Ga 20, 25) khi cứng lòng thách thức: “Nếu tôi
không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh, và không
đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20, 25).
Tôma có lý, vì chuyện sống lại là
chuyện khó tin, nên vội tin có thể bị chê là nhẹ dạ, mê tín. Nhưng Tôma quên một điều quan trọng, đó là
chính Đức Giêsu đã nói trước: “Ngài sẽ sống lại”. Lời hứa “sống lại” của Đức
Giêsu phải là điểm tựa cho niềm tin nơi ông. Lời tiên báo sẽ ra khỏi mồ sau
ba ngày của Thầy đáng lẽ đã phải là nền tảng cho niềm tin phục sinh nơi ông; nhưng
ông đã vô tình hay cố ý không quan tâm. Chính vì thế, ông đã không được xếp vào
hàng ngũ những người được Đức Kitô đặc biệt chúc phúc vì “ không thấy mà tin”
(Ga 20, 28).
Cũng như Tôma, các chứng nhân có thể
rơi vào tâm trạng nghi ngờ về tính khả
thi của lý tưởng đời làm chứng; nói cách khác, họ không dám nghĩ mình sẽ phải nên
thánh như Cha trên Trời là Đấng thánh, mà chỉ mong giữ đủ điểm trung bình và làng
nhàng vừa đủ xài, vừa đủ sức “qua cầu”. Thái độ thiếu nhiệt thành, thiếu nồng nàn,
không tha thiết với Đức Giêsu ở chứng nhân
là nguy cơ làm sụp đổ đời sống thiêng liêng, vì không thể làm chứng Đức Giêsu bằng
tình yêu loáng thoáng mây bay, hời hợt, lơ mơ, tạm bợ ; tương quan giữa Đức Giêsu
và người làm chứng về Ngài không thể mang tính ngoại giao, hình thức, nghi lễ,
thiếu chiều sâu tâm tình. Đó cũng là lý do Đức Giêsu bằng chất giọng thân tình
nhưng nghiêm trọng đã hỏi Phêrô nhiều lần: “Simôn, con ông Gioan, con có yêu Thầy
hơn những người khác không ? ”
(Ga 21, 15).
Nếu “ở lại” với Đức Giêsu là điều kiện của chứng nhân thì “trở lại” với Đức Giêsu cũng là đòi hỏi của
đời làm chứng, bởi đường đi đến với Đức Giêsu là con đường người làm chứng phải
trở đi trở lại không ngừng, vì còn nhiều giới hạn, tội lụy, dòn mỏng, yếu đuối
của thân phận người.
“Trở lại” hàm chứa một lần ra đi, lưu
lạc, lầm đường, lạc lối trước đò. Trở lại cũng là ở lại, bởi trong trái tim vô
cùng nhân hậu, bao dung, thương xót của Đức Giêsu, môn đệ của Ngài như đàn chiên
được dẫn đến đồng cỏ bên bờ suối mát, ở đó chúng được “ăn uống thoả thuê, no say và nhẩy vui”.
4. Lắng nghe Đức Giêsu:
Không thể làm chứng Đức Giêsu, nếu không
hiểu rõ Đức Giêsu và yêu mến Ngài. Để hiểu thấu đáo, hiểu sâu sắc, không gì hơn
là trao đổi, đối thoại . Thế nên, người môn đệ Đức Giêsu phải khao khát lắng
nghe Ngài nói và nói với Ngài.
Lắng nghe Ngài nói trước hết phải trở
thành hạnh phúc của người môn đệ: “Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được
thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe. Qủa thế, Thầy bảo thật anh em, nhiều
ngôn sứ và nhiều người công chính đã mong mỏi thấy điều anh em đang thấy, mà không
được thấy, nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe” (Mt 13, 16-17).
Người lắng nghe Đức Giêsu còn được gọi
là thân nhân của Ngài: “Mẹ và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa
và đem ra thực hành” (Lc 8, 21), vì họ chia sẻ với Ngài mọi tâm tình, thao thức,
ước mơ.
Người lắng nghe Đức Giêsu thuộc về đàn
chiên của Ngài, vì chiên nghe và nhận ra tiếng của chủ chiên (Ga 10,3.16).
Lắng nghe Đức Giêsu còn là hạnh phúc
lớn lao : “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa” (Lc 11,28), vì được
Lời Ngài biến đổi, được sống nhờ Lời hằng sống của Ngài, được nhận ra Tôn Ý rất
thánh thiện và tuyệt hảo của Ngài, đồng thời “thông dịch” Thánh Ý cho người khác.
Như thế, chứng nhân sẽ an lòng vững dạ,
vì bám chặt vào Lời cứu rỗi của Đức Giêsu, và gắn bó đời mình vào Lời hằng sống.
Họ sẽ không e ngại, lo lắng khi làm chứng, vì nhờ lắng nghe Đức Giêsu, họ được
tràn đầy Thánh Thần chân lý, Thánh Thần tình yêu và cũng là Đấng ủi an, phù trợ (x. Ga 16,7).
5. Ngước nhìn Đức Giêsu:
Sau cùng, chứng nhân được mời gọi
năng ngước nhìn Đức Giêsu để được ơn trở về, ơn thống hối, ơn cứu sống cho mình
và cho những người đang lắng nghe mình làm chứng.
Ngước nhìn Đức Giêsu như dân Do Thái
xưa trong sa mạc đã ngước nhìn rắn đồng
treo cao để được cứu chữa. Ngước nhìn như Phêrô đã chạm vào ánh mắt nhân hậu,
bao dung, tha thứ của Thầy mình; nhờ thế, ông đã “ra ngoài khóc lóc thảm thiết,
thống hối ăn năn” (x Lc 22, 60 - 62). Giuđa cũng phản bội Thầy như Phêrô, cũng
hèn nhát, bất trung như Phêrô, nhưng rất tiếc Giuđa đã không ngước nhìn lên Thầy,
không đi tìm ánh mắt trìu mến, xót thương của Thầy như Phêrô, và vì thế, Giuđa đã
đi thắt cổ vì tuyệt vọng (x. Mt 27,1-10).
Ngước nhìn Đức Giêsu để chứng nhân luôn
hy vọng ở lòng thương xót, luôn cậy trông ở tình cha nhân hậu, luôn vững tin ở ơn
cứu độ dồi dào, lai láng, như ánh mắt thiết tha khẩn khoản ở gìờ lâm tử của người
trộm lành trên thập giá bên cạnh Đức Giêsu chịu đóng đinh (x. Lc 23, 42- 43)
Phần III
THÁI
ĐỘ ĐỨC TIN CỦA CHỨNG NHÂN
Chứng nhân không làm chứng một lý
thuyết, một sự việc, một phát minh khoa học thấy được, “cân, đo, đong, đếm” được;
nhưng làm chứng một Thiên Chúa làm người, Thiên Chúa làm người ấy tuy đã sống, đã
chết, và đã sống lại, nhưng người chứng không còn thấy được, sờ được, và chứng
nhân chỉ thấy Ngài, gặp Ngài, nghe Ngài, cảm nghiệm Ngài qua Đức Tin; nghiã là
nhờ ơn của chính Ngài để có thể tin nhận Ngài là Thiên Chúa làm người để yêu mến,
phụng sự, và làm chứng về Ngài.
Như thế, người làm chứng cũng như người nghe nhân chứng, cả hai đều cần
đến đôi mắt Đức Tin, đôi tai Đức Tin, trái tim Đức Tin... để tin yêu và làm chứng
đối tượng Đức Tin là Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người. Cũng vì đòi hỏi của Đức
Tin, chứng nhân phải có thái độ Đức Tin, thái độ của người sống Đức Tin, thái độ
thấm nhuần Đức Tin trong đời sống.
Thái độ Đức Tin của chứng nhân là nhìn
tất cả mọi biến cố, sự việc quanh sứ mệnh loan truyền Đức Giêsu, làm chứng Đức
Giêsu dưới lăng kính hồng ân, và đặt để sứ mệnh ấy trong chương trình mầu nhiệm
của Đức Giêsu. Điều đó có nghiã: chứng nhân làm chứng như đầy tớ trung tín và siêng năng làm điều
chủ muốn và khiêm tốn đặt để mọi thành qủa trong tay chủ, vì xác tín: mình chỉ
là đầy tớ vô dụng, bất xứng. Thái độ này sẽ giữ chứng nhân trong khiêm tốn, phó
thác là điều kiện không thể thiếu đối với người làm chứng Đức Giêsu, Đấng đã qủa
quyết: “Không có Thầy, chúng con không làm được gì”.
1. Thái độ tuyệt đối phó thác:
Tin Mừng Gioan 21, 1-11 kể:
“Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn
đệ ở biển hồ Tibêria. Người tỏ mình ra như thế này: Ông Simôn Phêrô, ông Tôma gọi
là Đyđimô, ông Nathanaen người Cana miền Galilê, các người con ông Dêbêđê và
hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. Ông Simôn Phêrô nói với các ông:
“Tôi đi đánh cá đây”. Các ông đáp: “Chúng tôi cùng đi với anh”. Rồi mọi người
ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.
Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên
bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu. Người nói với các
ông:”Này các chú, không có gì ăn ư ? ”. Các ông trả lời: “Thưa không”. Người bảo
các ông : “Cứ thả lưới bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá”. Các ông thả
lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. Người môn đệ được
Đức Giêsu thương mến nói với ông Phêrô rằng: “Chúa đó !". Vừa nghe nói “Chúa
đó !”, ông Simôn Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhẩy xuống biển…
Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn
than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. Đức Giêsu bảo các ông: “Đem ít
cá mới bắt được tới đây !”. Ông Simôn Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưói vào bờ. Lưới
đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều vậy mà lưới không
bị rách”.
Tin Mừng gợi lên cho chúng ta:
· Đức Kitô đã đến
với các môn đệ khi các vị bất lực ngay trong chính khả năng, chuyên môn của
mình: Là dân chài lưới chuyên nghiệp,
cha truyền con nối thế mà “ thả lưới suốt
đêm chẳng bắt được con cá nào”.
· Đến với các
môn đệ trong khi các ông đói, mệt sau một đêm dài vất vả, Đức Kitô đã đến và chuẩn
bị sẵn lửa, cá và bánh cho các ông: “.’Thái độ tế nhị, ân cần, nghĩ đến nhu cầu
thiết thực của người khác đã đem lại hạnh phúc cho các ông.
· Đến với các
môn đệ khi các ông không còn biết bắt cá ở đâu, Đức Kitô đã chỉ cho các ông
“bên phải mạn thuyền” là chỗ có nhiều cá và các ông đã thu hoạch một mẻ cá lạ
lùng, ngoài sức tưởng tượng.
· Về phiá các
môn đệ, các ông đã không bực bội khi Đức
Kitô hỏi : “Chúng con có bắt được con cá nào không ?”, nhưng đã khiêm tốn tiếp tục thả lưới theo ý Đức
Kitô, mặc dù các ông là ngư phủ chuyên nghiệp và biết Đức Kitô không biết gì về nghề chài lưới; nhưng vì tin tưởng, tín thác,
các ông đã thả lưới vì “vâng lời Thầy”.
Vì tín thác vâng lời, các môn đệ đã đánh
được mẻ cá lớn với 153 con cá to. Vì tin tưởng phó thác, các ông đã thành công
vượt mức và thu hoạch ngoài sức tưởng tượng. Khả năng đánh cá, kinh nghiệm chài lưới của các ông xem ra không còn hữu hiệu
trước sức mạnh toàn năng của Đức Kitô Thiên Chúa.
· Nhưng có một
chi tiết không thể bỏ quên, đó là trong số bẩy môn đệ, chỉ một mình Gioan, người
môn đệ mà Đức Kitô yêu đặc biệt, và cũng là người môn đệ luôn đi theo và ở với
Đức Kitô trong suốt hành trình cứu thế của Ngài: từ Galilê, Tabo, Cana, Bêtania
đến vườn Cây Dầu và dưới chân thánh giá
trên đồi Golgotha đã nhận ra Đức Kitô khi Ngài đến gặp các ông. Sở dĩ chỉ một
mình người môn đệ được yêu hơn tất cả đã nhận ra Thầy là vì tình yêu đã mở mắt
ông, tình yêu đã mặc khải Đức Kitô là Thiên Chúa, tình yêu đã cho thấy Đức Kitô
hiện diện trong cuộc đời, trong anh em, nơi những người bé nhỏ, nghèo hèn, bệnh
tật, tội lỗi. Nói cách khác, chỉ duy tình yêu mới có khả năng cho ta nhận ra Đức
Kitô, vì “Ai yêu mến thì biết Thiên Chúa, ai yêu mến thì ở trong Thiên
Chúa, ai yêu mến thì thấy Thiên Chúa” (x. 1Ga 4,7-16).
Đời làm chứng nhân cũng như ra khơi đánh
cá. Nếu cậy vào khả năng, tài cán, đức hạnh của mình thì chúng ta sẽ chỉ mất công,
“vất vả suốt đêm mà chẳng bắt được con cá nào”. Nếu ỷ vào thế lực, ảnh hưởng của
thế gian, chúng ta sẽ bôn ba, quay cuồng mà chẳng sinh được hoa trái thiêng liêng
cho ai, kể cả cho mính. Trái lại, chỉ khi nhận mình bất lực, yếu đuối và hoàn
toàn vâng phục thánh ý, như các môn đệ đã “vâng lời Đức Kitô thả lưới bên phải mạn thuyền”,
dù suốt đêm đã giăng lưới mà chẳng bắt được con cá nào, chúng ta mới “lưới” được
nhiều linh hồn như mẻ cá lạ lùng trên biển hồ Tibêriát năm xưa.
2. Thái độ kiên trì, nhẫn nại:
Thánh Phaolô đã khuyên
nhủ môn đệ của ngài là Timôtê:
“Hãy rao giảng Lời Chúa, hãy lên tiếng
lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện; hãy biện bác, cảnh cáo, khuyên nhủ,
với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dậy dỗ. Thật vậy sẽ đến thời người ta không
còn chịu nghe giáo lý lành mạnh, nhưng theo những dục vọng của mình …Họ sẽ ngoảnh
tai đi không nghe chân lý, nhưng hướng về những chuyện hoang đường. Phần anh, hãy
thận trọng trong mọi sự, hãy chịu đựng đau khổ, làm công việc của người loan báo
Tin Mừng và chu toàn chức vụ của mình” (2 Tm 4, 2 -5).
“Bởi vậy, anh em thân mến, anh em hãy
kiên tâm, bền chí, và càng ngày càng tích cực tham gia vào công việc của Chúa,
vì biết rằng: trong Chúa, sự khó nhọc của anh em sẽ không trở nên vô ích.” (1
Cr 16, 58).
Như thế, làm chứng không dễ dàng, xuông
xẻ, cũng không thaỏi mái, dễ chịu; nhưng
đời làm chứng là đời thánh giá, đời hy sinh, quên mình vì Tin Mừng, vì
Nước Trời, đúng hơn là vì “tình yêu Đức
Giêsu thúc bách”, nên không có chứng nhân hưởng thụ, lè phè, chứng nhân ra vào
xênh xang, bệ vệ. Cũng không có chứng nhân bàng quan, vô cảm, dửng dưng, bất cần.
Trái lại, đã là chứng nhân là tất tả một đời xuôi ngược tìm kiếm như chủ chăn đi
tìm chiên lạc, là mòn mỏi một đời trông ngóng như người cha nhân hậu đợi bước
chân trở về của đứa con hoang đàng, là có mặt ân cần, là sẻ chia tình nghiã, là
thông cảm sâu sắc, ngút ngàn, là qủang đại trao ban, là mệt nhoài vác thập giá,
là trơ trụi , trần truồng, cô đơn, là lặng lẽ chôn vùi không dấu tích, là chìm
lỉm ẩn mình “không sủi bọt”.
3. Thái độ chân thành hợp tác với các chứng nhân
khác:
Nếu Đức Giêsu đã nhắc chúng ta: “Người
ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương
nhau” (Ga 13, 35), thì thái độ của chứng nhân đối với anh em “đồng nghiệp” phải
là thái độ yêu mến, tôn trọng và chân thành hợp tác. Lòng ghen ghét, tỵ nạnh,
kiêu căng, mê quyền bính, say danh vọng, thích ảnh hưởng, tìm kiếm “fan” hâm mộ là kẻ thù phá hoại tanh bành đời chứng nhân. Thánh Phaolô khuyên chúng ta:
“Vậy Apôlô là gì ? Phaolô là gì ? Đó
là những tôi tớ đã giúp cho anh em có Đức Tin, mỗi người đã làm theo khả năng
Chúa ban. Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. Vì
thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn
lên, mới đáng kể. Kẻ trồng, người tưới đều như nhau…. Chúng tôi chỉ là cộng sự
viên của Thiên Chúa. Anh em là cánh đồng của Thiên Chúa, là ngôi nhà Thiên Chúa
xây lên” (1 Cr 3,5-9).
4. Thái độ hân hoan, vui mừng của con cái biết cha
mình sẽ ban thưởng:
Người tín hữu đi theo Đức Giêsu, chứng
nhân làm chứng Đức Giêsu, tất thẩy đều chung một đợi chờ, một hy vọng được hạnh
phúc đời đời, được chia sẻ vinh quang trong vương quốc của Đức Giêsu. Không ai
không nuôi niềm hy vọng và đợi chờ phần thưởng
vô cùng lớn lao ấy như khát vọng tiềm tàng, bốc cháy: “ Nếu ta cùng chết
với Đức Giêsu, ta sẽ cùng Ngài phục sinh. Nếu ta chịu khổ với Ngài, ta sẽ cùng
Ngài thống trị” (2Tm 2, 11-12).
Các môn đệ cũng đã bạo dạn đặt vấn đề
với Đức Giêsu: “Lậy Thầy, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, chúng con sẽ được
gì ?”. Và Đức Giêsu đã khẳng định :”Chẳng có ai bỏ nhà, bỏ vợ, anh em, cha mẹ
hay con cái vì Nước Trời, mà lại không được gấp bội ở đời này và sự sống vĩnh cửu
ở đời sau” (Lc 18, 28-29).
Chỗ khác, Đức Giêsu mong muốn các môn
đệ vui mừng vì tên họ đã được ghi trên trời (Lc 10, 20).
Như thế, phần thuởng lớn mà các chứng
nhân phải ưu tiên mong đợi chính là cuộc
sống mai hậu vĩnh cửu trên trời. Đây là phần thưởng lớn hơn tất cả mọi phần thưởng. Nhưng với những
người tự nhận là khôn ngoan kiểu thế gian, thì phần thưởng này là điều điên rồ,
dại dột; bởi đã bỏ hạnh phúc đang có trước mắt, sẵn trong tầm tay để mơ một hạnh
phúc xa vời, viển vông, mơ hồ, không chắc sẽ có.
Không thiếu những đàm tiếu, châm chọc,
khích bác từ phiá những người chống Đức Giêsu và Giáo Hội của Ngài khi họ gọi
những người đi theo Đức Giêsu và mơ ước phần thưởng thiên đàng là đám cuồng tín,
yếm thế, ảo tưởng. Họ nghĩ mình khôn ngoan và cho là ngu xuẩn, điên rồ những chứng
nhân của Nước Trời. Trong thư gửi giáo đoàn Côrintô, thánh Phaolô đã phân tích
sự khôn ngoan của thế gian và sự khôn ngoan của những người thuộc về Đức Giêsu:
“Thật vậy, thế gian đã không dùng sự
khôn ngoan mà nhận biết Thiên Chúa ở những nơi Thiên Chúa biểu lộ sự khôn ngoan
của Ngài. Cho nên Thiên Chúa đã muốn dùng lời rao giảng điên rồ để cứu những
người tin. Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng, dấu lạ, còn người
Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đức Kitô chịu đóng
đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho
là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi…, thì Đấng ấy chính
là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa.Vì cái điên rồ của Thiên
Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa con
hơn cái mạnh mẽ của nhân loại” (1 Cr 1,21-25). Cũng vậy, hạnh phúc đời đời như
phần thưởng được Thiên Chúa hứa ban cho
những ai thuộc về Đức Giêsu bị coi là chuyện hoang đường, bánh vẽ, không tưởng.
Trước những mũi tấn công của thế gian , ma qủy, chứng nhân của Đức Giêsu phải luôn tâm niệm: “điều mắt chẳng hề thấy, tai
chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn
cho những ai yêu mến Ngài” (1 Cr 2,9).
Thật vậy, thế gian không thể cảm nghiệm hạnh phúc được phục vụ Đức Giêsu, yêu mến Đức
Giêsu và làm chứng về Đức Giêsu. Thế gian cũng không nếm được sự ngọt ngào, êm ái khi ở với Đức Giêsu,
lắng nghe Đức Giêsu, chiêm ngưỡng Đức Giêsu. Kinh nghiệm hạnh phúc này chỉ có nơi
các chứng nhân, những người say mê Đức Giêsu, hết tình với Đức Giêsu và được tình
yêu Ngài thúc bách dấn thân làm chứng về Ngài. Chẳng thế mà không gì có thể tách chứng nhân ra khỏi Đức Giêsu Kitô, dù đó là thiên đàng, điạ
ngục, đòn vọt, khốn khó, tai ương, kể cả giam cầm, chết chóc …., bằng chứng là
dọc lịch sử Giáo Hội có biết bao chứng
nhân đã đổ máu, đã lấy chính sinh mạng để làm chứng tình yêu Đức Giêsu.
Bên cạnh những chứng nhân được biết đến,
còn rất nhiều chứng nhân âm thầm, vô
danh đã và đang dâng hiến cuộc đời mình để làm chứng Tin Mừng cứu độ. Bằng cuộc
đời hy sinh, với tình yêu nồng nàn, gắn bó, họ “đã không dùng lời lẽ hùng hồn
hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền
năng Thiên Chúa. Họ cũng không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô
chịu đóng đinh và nếu có tự hào, họ cũng chỉ dám tự hào trong Đức Giêsu, Đấng đã
cho họ được ở trong Thiên Chúa, đã ban cho họ sự khôn ngoan, đã làm cho họ trở
nên công chính, đã thánh hoá và cứu chuộc họ. (x. 1 Cr 1,30-31; 2,1-5).
Sau hết, chúng ta xin ký thác tất cả
trong tình mẫu tử của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo Hội, Mẹ các tâm hồn tận
hiến, Mẹ các nhà truyền giáo, Mẹ các Giáo Lý viên, và Mẹ của mỗi người. Hơn ai
hết, Mẹ luôn có Chúa, đi theo Chúa và ở lại với Chúa suốt đời Mẹ đã không để sót, phí phạm, bỏ qua một giây phút ngắn ngủi nào vắng Chúa, xa Chúa,
không có Chúa trong bất cứ tình huống thuận lợi hay nguy hiểm nào của đời Mẹ.
Cũng hơn ai hết, Mẹ đã biết đi theo và
sống mật thiết, ân tình với Đức Giêsu con Mẹ. Xin Mẹ dậy các chứng nhân Tin Mừng
biết giá trị của việc đi theo và ở lại
với Đức Giêsu; biết sự cần thiết của lắng
nghe và ngước nhìn Chúa.
Và xin Mẹ đồng hành với các tâm hồn tận
hiến để nâng đỡ họ trên hành trình Thánh Giá hướng về vinh quang Phục Sinh với
Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa và con Mẹ.
N¡ngTím