Có thể khẳng định mà không sợ lạc đạo : Sống
Đạo mà không truyền Đạo là giết chết Đạo
ngay trong đời sống của người có Đạo, bởi Công Đồng Vaticanô II trong Sắc
Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội - Ad Gentes, ngày 7 tháng 12 năm
1965 đã xác tín : "Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành là người được sai đi, vì cội
nguồn của Giáo Hội gắn liền với việc Chúa Con và Chúa Thánh Thần được sai đến
theo ý định của Thiên Chúa Cha ữ (Chương 1, số 2)" để thực thi phận vụ rao giảng Phúc Âm và gầy dựng
Giáo Hội nơi các dân tộc, hoặc nơi những cộng đồng chưa tin vào Chúa Kitô, được gọi chung là sứ vụ thừa
sai (Chương 1, số 5).
Như thế mỗi người Kitô hữu là một nhà truyền
giáo, một thừa sai, được Giáo Hội sai
đi, qua bí tích Rửa Tội, để loan báo Tin
Mừng cho mọi người, bất kể họ là ai, thuộc sắc dân, ngôn ngữ, địa dư, nền văn
hoá, phong tục hay chính kiến nào. Sẽ
không còn não trạng khoán trắng việc truyền giáo cho các Đức Cha, các cha, các
sơ ; càng không coi việc loan báo Tin Mừng là việc của người khác, chuyện của
thiên hạ, nhưng là chính căn tính của đời người Kitô hữu, người có Chúa Kitô,
người mang Chúa Kitô đến cho nguời khác.
Nhưng truyền giáo bằng cách nào ? Thưa, bằng
trở nên chứng tá tình yêu của Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người ; trở nên chứng từ
sống động hồng ân cứu độ của Thiên Chúa, như Công đồng đã qủa quyết : "Giáo Hội
được Chúa Kitô sai đi để bầy tỏ và thông ban tình yêu Thiên Chúa cho tất cả mọi
người" (Ad Gentes, chương 2, số 10)... nên tất cả các Kitô hữu, dù sống ở
đâu, đều phải dùng chứng tá và gương mẫu đời sống để thể hiện con người mới họ
đã tiếp nhận qua bí tích Thánh Tẩy.. ( AG Chương 2, số 11).
Suy nghĩ về sứ mệnh truyền giáo của mình
trong vị thế người Kitô hữu, tôi
đề nghị qúy bạn cùng tôi chiêm ngắm hai người mù được Đức Giêsu chữa trong Tin
Mừng : người mù thành Giêrikô (Lc 18,35-43), và người mù từ thuở mới sinh (Ga
9, 1-41). Hai đoạn Tin Mừng về hai người mù được Chúa chữa sẽ giúp chúng ta trả
lời câu hỏi : Phải truyền giáo bằng cách nào ?
Trước hết, ta tìm ra những điểm đặc biệt ở
người mù được Chúa cho sáng mắt ở thành Giêrikô trong Tin Mừng Luca 18,35- 43 :
1. Anh
khắc khoải, mong được gặp Đức Giêsu :
Toàn thể mạch văn đã nói lên anh đợi chờ Đức
Giêsu từ lâu và mong Ngài đi ngang qua chỗ anh ngồi để hy vọng được Ngài chữa,
như anh đã nghe đám đông kháo láo, đồn đãi về
quyền năng chữa bệnh của Ngài . Tuy mắt mù, nhưng tai rất thính và bén
nhậy đón chuyện từ đám đông, nên luôn miệng "hỏi xem có chuyện gì" mỗi khi
nghe xôn xao, ồn ào (Lc 18,36).
2. Anh lớn tiếng kêu cầu Đức Giêsu dủ lòng
thương xót anh (Lc 18,38).
Ngay khi biết Đức Giêsu đang đi qua đó, anh
đã xin Ngài thương xót cứu chữa anh. Chính thái độ khiêm tốn nhận mình cần được
xót thương và lời van xin tha thiết phát xuất tự đáy lòng và thân phận tật nguyền
đã làm Đức Giêsu chạnh lòng, đứng lại bên anh và thân mật trò chuyện : ỡ Anh muốn
tôi làm gì cho anh ? (Lc 18,41). Anh tin tưởng thưa với Ngài : "Lậy Ngài,
xin cho con được nhìn thấy".Và phép lạ đã lập tức được thực
hiện khi Đức Giêsu nói : "Anh nhìn thấy đi ! Lòng tin của anh đã cứu
anh" (Lc 18,39- 42).
3. Anh đi theo Ngài, sau khi được chữa lành
(Lc 18,43)
Có nhiều người được chữa lành nhưng không
đi theo Đức Giêsu, Đấng đã chữa mình, nhưng anh mù này đi theo Đức Giêsu sau
khi được sáng mắt. Chúng ta cũng thấy thái độ không biết ơn này của chín người
phong cùi được Chúa chữa, và duy chỉ một người trong số mười người đươc chữa đã cư
xử như một người có lòng biết ơn đối với ân nhân của mình trong Tin Mừng
Luca 17,11-19. Thế mới biết, người đời
có khuynh hướng chuộng quên ơn hơn nhớ ơn, và số người vô ơn, bạc nghiã đông gấp
nhiều lần những người ân sâu nghiã nặng.
4. Anh vừa đi vừa tôn vinh Thiên Chúa và kể cho mọi người việc lạ lùng Thiên Chúa đã làm
cho anh (Lc 18,43).
Vừa được sáng mắt sau bao nhiêu năm mù
loà, anh vui lắm và niềm vui của anh trước hết hướng đến bổn phận tôn vinh Thiên Chúa, Đấng đã cho anh được
sáng mắt; đồng thời làm chứng trước mặt mọi người Thiên Chúa đã chữa anh. Anh
trở thành chứng từ sống động và chứng tá
đích danh, đích thực của tình yêu Thiên
Chúa trên những thân phận tật nguyền, những con người khổ đau, yếu đuối. Mọi
người tin anh nói đúng, nói thật, và cùng anh cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa,
vì chính anh là người mù mà ai cũng biết vừa được Đức Giêsu làm cho sáng mắt
cách nhãn tiền, không thể chối cãi.
Những điểm đặc biệt ở người mù được Đức
Giêsu chữa lành chính là tiến trình truyền giáo mà người Kitô hữu phải có, nói
cách khác, đó là những tâm tình, thái độ và việc làm cần thiết nơi nhà truyền
giáo, vị thừa sai, người Kitô hữu:
Truyền giáo là khao khát gặp gỡ Chúa:
Không có lửa khao khát gặp Chúa, thiếu nồng
nàn trong tương quan với Chúa, tắt một lời, không gắn bó, kết hợp mật thiết với
Chúa, chúng ta không thể có được tâm hồn truyền giáo, vì có Chúa đâu mà giới thiệu, có kinh nghiệm về
Chúa đâu mà chia sẻ với người khác, có nhận ra việc lạ lùng Chúa làm cho mình
đâu mà kể cho người chung quanh, có xác tín về tình yêu Chúa dành cho mình đâu
mà thuyết phục đám đông tin rằng Chúa
yêu thương họ.
Bởi truyền giáo không là chuyển tải kiến thức
về Thiên Chúa, nhưng là làm chứng Thiên Chúa yêu thương tôi, kể cho người khác
kinh nghiệm sống của một người có Chúa trong cuộc sống, giới thiệu một Thiên
Chúa làm người đến để cứu độ và đang đồng hành với tôi trên mọi nẻo đường đời,
nên không thể là nhà truyền giáo, thừa sai, nếu thiếu cảm nghiệm về Thiên Chúa
đầy lòng thương xót và tâm tình của người được Thiên Chúa xót thương. Kiến thức
thì chung chung, ai chuyển tải cho ai cũng được, tùy theo mức độ, nhưng truyền
giáo thì khác, bởi kinh nghiệm về Thiên Chúa thì riêng tư, chỉ có được do tương
quan giữa cá nhân mỗi người với Thiên
Chúa.
Khao khát gặp gỡ Chúa vì thế trở thành điều
kiện không thể thiếu ở tâm hồn truyền giáo. Khao khát này không chỉ cho ta được
thấy Thiên Chúa, mà còn thúc bách ta giúp
mọi người cũng được hạnh phúc thấy Thiên Chúa như ta, bằng kể cho mọi
người về Thiên Chúa dịu ngọt làm sao và
tình thương của Ngài bao la, vĩ đại dường nào ! Kinh nguyện và các bí tích
là phương thế giúp ta thể hiện khao khát cháy bỏng có Chúa.
Truyền giáo là chân nhận ta cần được
thương xót:
Nhà truyền giáo, vị thừa sai, người Kitô hữu mà nghĩ mình thánh thiện, đạo đức,
hoàn hảo đến độ không cần ai thương xót, cũng chẳng quan tâm đến lòng Chúa xót
thương, thì không gì nguy hiểm hơn cho bản thân, mà còn nguy hại khôn lường cho
nhiều người khác, bởi các vị đã hủy bỏ chính đối tượng của truyền giáo là loan
báo Thiên Chúa đầy lòng xót thương mãi mãi thương xót dân Ngài luôn cần tình Ngài thương xót.
Nhiều người lầm tưởng : truyền giáo là tuyên
truyền về cơ cấu, tổ chức, công trình có
tên tuổi, để đời của Giáo hội; là cổ động lòng khâm phục đối với người công
giáo; là tìm kiếm lòng ngưỡng mộ kho tàng
giáo lý có hệ thống chặt chẽ, khó có thể bắt bẻ của Đạo; là nhồi sọ, rửa
óc người khác bằng những so sánh: người có Đạo ưu tú hơn người không Đạo, đi Đạo
có nhiều mối lợi hơn ở ngoài Đạo; là khoe khoang, phô trương những nghi lễ hoành
tráng; là biện luận, tranh cãi để dành phần thắng cho Đạo mình, mà quên rằng: truyền giáo trước hết và trên hết
là làm chứng Thiên Chúa xót thương và cứu chữa tôi là thân phận yếu đuối, bất
toàn cần được thương xót.
Vì thế, nhận mình cần được xót thương mọi
nơi, mọi lúc vì mình yếu đuối, hèn mọn, dễ ngã, dễ vỡ, dễ đổ chính là chứng từ
hùng hồn và thuyết phục nhất khi loan báo, rao giảng, làm chứng Tin Mừng của Đức
Giêsu, bởi nội dung của Tin Mừng là lòng thương xót Chúa, Đức Giêsu của Tin Mừng là dung mạo của
Chúa Cha đầy lòng thương xót, sứ điệp của Tin Mừng là ơn cứu độ do lòng Chúa
xót thương nhân loại.
Với tâm tình cần được thương xót, nhà truyền
giáo sẽ không làm tổn thương người khác, nhưng giúp cho họ nhận ra Thiên Chúa rất
đáng yêu, vì Ngài đầy lòng thương xót, khi thấy nhà truyền giáo như đang gặp gỡ,
đang lắng nghe, đang đi theo, đang ở cùng, đang sống với, đang kết hợp, hiệp
thông với Đấng giầu lòng xót thương và tìm đến để thương xót con người, qua
dung mạo, lời ăn tiếng nói, cung cách, thái
độ dễ thương, dễ gần, dễ cảm thông, dễ chạnh lòng thương cảm của nhà truyền
giáo. Qủa thực, không nhịp cầu nào ngắn
nhất, dễ nhất đưa trái tim con người đến với trái tim Thiên Chúa bằng nhịp cầu
thương xót của nhà truyền giáo, khi vị ấy biết mình cần được thương xót và biết
xót thương mọi người.
Truyền giáo là đi theo Đức Giêsu:
Truyền giáo không phải một công việc được
tách ra khỏi đời sống thường ngày, hay chỉ được coi như một phần được thêm vào
cuộc sống, càng không phải một phụ lục của cuốn sách cuộc đời dầy cộm, nhưng
truyền giáo phải là chính đời sống của người Kitô hữu, nghiã là, sống truyền
giáo như hơi thở, như nhịp đập của con tim: tim ngưng là chết, hết thở là nhắm
mắt, xuôi tay. Điều này muốn nói : truyền
giáo là sự sống, là cuộc đời, là ơn gọi làm người, hạnh phúc làm con Chúa, nên
không thể quan niệm một vị thừa sai, một nhà truyền giáo, một người Kitô hữu
thích truyền đạo, ham rao giảng Tin Mừng mà không chịu làm môn đệ đi
theo Đức Giêsu, không chịu lên đường đồng hành với Đức Giêsu, không đồng sinh
đồng tử với Đức Giêsu.
Trong Tin Mừng, Đức Giêsu đã gọi nhiều người,
nhưng không nhiều người đã đi theo
Ngài.Và điều đặc biệt là Ngài đã chỉ sai những ai đi theo Ngài lên đường rao giảng
Tin Mừng, mà không sai bất cứ ai, hay sai đám đông ô hợp, hỗn tạp. Tin Mừng
Mátthêu cũng như Tin Mừng Luca, Gioan đều tường thuật rất rõ ràng : Đức Giêsu
sau khi sống lại đã sai các môn đệ của Ngài lên đường truyền giáo cho muôn dân
: "Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất". Vậy anh em hãy đi và làm cho
muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh Thần, dậy cho họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây,
Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế (Mt 28, 18-20).
Thực vậy, sứ vụ truyền giáo của người tín hữu
xuất phát từ sứ vụ của các thánh Tông Đồ đã được Đức Giêsu trực tiếp ủy thác,
nên sẽ không có truyền giáo tự phát, tự động; sẽ không có Thừa Sai tự sai mình,
nhưng tất cả phải được Giáo Hội sai đi , như Công Đồng đã khẳng định : Ngay từ
đầu, Chúa Giêsu đã gọi đến với Người những kẻ Người muốn và lập thành nhóm Mười
Hai để họ ở với Người và để Người sai họ đi rao giảng ..Từ đó, Giáo Hội nhận
nhiệm vụ truyền bá đức tin và ơn cứu rỗi do Chúa Kitô mang đến, một đàng dựa
trên sự ủy thác rõ ràng của các Tông Đồ cho hàng Giám Mục với sự trợ giúp của
các linh mục, hợp nhất với Đấng kế vị thánh Phêrô cũng là Mục Tử Tối Cao của
Giáo Hội, đàng khác do đòi hỏi của chính sự sống Chúa Kitô muốn thông ban cho
các chi thể.. (Ad Gentes, chương 1, số 5).
Xác tín truyền giáo là sứ vụ của đời người
Kitô hữu trong lòng Giáo Hội của Đức Giêsu là điều rất quan trọng, để những bước
chân truyền giáo không lệch đường, lạc lối, bởi đã có rất nhiều sáng kiến truyền
giáo vì sơ ý đã tự tách ra khỏi Nhiệm Thể Đức Kitô là Giáo Hội và sinh ra những
nguy hiểm cho việc truyền giáo khi Hiệp Nhất
của Giáo Hội bị rạn nứt, đe dọa.
Truyền Giáo là tôn vinh Thiên Chúa đầy
lòng thương xót và kể cho mọi người về lòng thương xót Chúa trải qua từ đời nọ đến
đời kia trên những ai kính sợ Người (Lc 1,50).
Và
trong số những người kính sợ Chúa có nhà truyền giáo, vị thừa sai, người tín hữu
đang kể chuyện riêng của mình, câu chuyện riêng được Thiên Chúa thương
xót, kinh nghiệm riêng được Thiên Chúa
ân cần, âu yếm nâng niu, gìn giữ như con ngươi của Ngài. Đức Maria đã không
truyền giáo bằng cách nào khác là kể cho mọi người nghe những việc kỳ diệu
Thiên Chúa đã làm cho nữ tỳ của Ngài : Phận nữ tỳ hèn mọn, Ngài đã đoái
thương nhìn tới (Lc 1,48); Đức Mẹ cũng
không phát minh phương pháp loan báo Tin Mừng nào khác độc đáo hơn là ca ngợi
lòng thương xót trung tín và đời đời của Thiên Chúa trải qua từ đời nọ đến đời
kia.Tất cả đều tập trung ở ca ngợi Thiên Chúa giầu lòng xót thương và kể lại
công trình thương xót kỳ diệu của Ngài.
Người mù từ thuở mới sinh trong Tin Mừng
Gioan đã gặp rất nhiều khó khăn khi kể lại phép lạ được chữa lành đôi mắt. Anh
đã bị giáo quyền hạch hỏi, đe nẹt, tố
cáo, kể cả lên án: sau khi tra khảo Đức Giêsu đã làm gì khi chữa mắt cho anh,
những cán bộ tôn giáo đã chụp mũ Đức Giêsu không thể là người của Thiên Chúa,
vì không giữ luật ngày Sabát khi chữa mắt cho anh mù và người tội lỗi vì sai
luật Môsê làm sao có thể làm được những dấu lạ ? (Ga 9,16).Trước những tấn
công vũ bão của những người ghét và muốn giết
Đức Giêsu, anh mù vừa được chữa vẫn can đảm kể lại sự thật được Đức
Giêsu lấy bùn làm cho mắt anh được sáng (Ga 9,14), nhất là dũng cảm biểu lộ ý
nghĩ của mình về người đã chữa mắt mình : Người là một vị ngôn sứ ! (Ga 9,
17). Thánh sử Gioan đã khéo tả lại cảnh tượng hạch hỏi của đám Biệt Phái : Một
lần nữa đám Biệt Phái qủa quyết Đức Giêsu là người tội lỗi, với ác ý quy kết
phép lạ Đức Giêsu vừa làm chữa người mù bẩm sinh không thể là việc kỳ diệu từ
Thiên Chúa. Họ tưởng sẽ bịt miệng được anh mù vừa được chữa lành, ai ngờ anh
cho họ gáo nước lạnh làm tái mặt khi
dõng dạc trả lời: "Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết.
Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được"! (Ga 9,
25) và hóm hỉnh trả đũa: Hay các ông
cũng muốn làm môn đệ ông ấy chăng ? (Ga 9,27), khi họ cứ lải nhải bắt anh kể
đi kể lại phép lạ với dã tâm tạo áp lực để anh phải nói theo ý họ.
Như thế, truyền giáo không luôn là công việc
dễ dàng, xuông xẻ, bởi ma qủy luôn tìm cách chống phá công cuộc rao giảng Tin Mừng
cứu độ của Đức Giêsu. Lịch sử Giáo Hội đã minh chứng điều này với bao nhiêu cuộc
bách hại, truy diệt các nhà truyền giáo, thừa sai. Trên giải đất Việt Nam này,
máu của các vị cũng đã đổ ra để hạt giống đức tin được nẩy mầm và lớn lên. Do
đó, truyền giáo đòi nhiều hy sinh, dũng cảm trước nhiều thiệt thòi, mất mát vì Tin Mừng.
Tóm lại, truyền giáo chính là loan truyền
Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến. Khi loan truyền
Chúa chịu chết, chúng ta truyền giáo bằng loan báo một Thiên Chúa làm người, chết như con người vì xót thương con người.
Thiên Chúa làm người ấy đã đi vào lịch sử của con người và hiến mạng làm giá cứu chuộc con người để con
người khỏi phải chết. Đồng thời, chúng ta cũng truyền giáo bằng tuyên xưng Chúa
sống lại để thực hiện Lời Hứa thương xót, cứu chữa con người khỏi ách thống trị
của thần dữ và sự chết bằng chính quyền năng thương xót của Ngài là Thiên Chúa
vô cùng toàn năng và giầu lòng thương xót. Cả hai bản tính Thiên Chúa và Con
Người nơi Đức Giêsu đều là Tình Yêu Thương Xót: Thiên Chúa của lòng thương xót
đã làm người vì xót thương. Và Truyền Giáo sẽ không là gì khác hơn là kể lại
tình Chúa xót thương trên mỗi người và mọi
người chúng ta.
Câu chuyện hai anh mù được Chúa chữa trong
Tin Mừng thiết tưởng phần nào đã soi sáng con đường Truyền Giáo của chúng ta,
con đường Đức Giêsu đã đi, con đường các Tông Đồ và hàng hàng lớp lớp người
Kitô hữu qua bao thế hệ đã hân hoan đồng
hành với Thiên Chúa làm người và ở giữa loài người vì thương xót phận người của chúng ta.
Jorathe Nắng Tím