Tìm kiếm Blog này

Thứ Ba, 18 tháng 9, 2018

Chương IV MỘT TÌNH YÊU HUYẾT THỐNG


    Không kể vì lý do nào đó, cha mẹ nhận con nuôi, nhưng sự thường thì đã là con tức phải được sinh ra bởi cha mẹ. Cha mẹ sinh ra con, đó là điều giản dị, bình thường đến độ chẳng mấy ai để ý, và quả thực: mầu nhiệm sinh ra con người vi đại thế mà chẳng  mấy ai bỡ ngỡ, kinh ngạc. Bạn hãy cùng tôi vào bệnh viện phụ sản để quan  sát niềm vui của người đan ông lần đầu tiên làm cha, và  người mẹ lần đầu làm mẹ. Đứa con vừa lọt lòng, người  đan ông đứng bên giường vợ còn nhắm mắt thở dốc vì  mệt nhoài sau khi sinh nhào người về phía trước, mắt  sáng rỡ, đưa tay ôm chầm đứa con vừa chào đời. Ông  vui lắm, một niềm vui thiêng liêng khó tả, một niềm  vui đang hòa chung với máu trong các ven mạch, một  niềm vui đang đổi biến tất cả cơ năng trong người ông  thành khả năng yêu thương. Ông cảm thấy niềm vui cứ từng phút dâng cao chất ngất, đến một lúc, ông chỉ còn  bắt gặp mình ngây ngất trong tình yêu, một thứ tình rất  lạ, rất mới, rất diệu kỳ đến chính ông cũng không chuẩn  định và đặt tên được.  Từ nay ông làm cha, nghia là có một con người vừa  chào đời do ông, từ ông; có một sinh linh hiện diện trong  trời đất mang dòng máu, mang gien của ông. Ông hạnh  phúc vì thấy mình là tác giả của một công trình sinh ra  một con người mới, và ông chỉ muốn yêu con người mới  này thật nhiều.  Khi chăm chú nhìn con, âu yếm hôn con, nựng nịu  đôi má con, người cha ý thức gánh nặng từ nay ở trên vai  ông, đó là gánh nặng hạnh phúc của con ông. Vì hạnh  phúc là ước mơ ông đang đặt trong từng nụ hôn trên má  con, trong bàn tay ông đang vuốt nhẹ lưng con, trong  ánh mắt ông đang chiêm ngắm con, trong thì thầm yêu thương ông đang tận tai con trao gửi. Ông lấy hạnh phúc  của con làm mục tiêu phải đạt kể từ hôm nay, dù ông sẽ  phải đi làm nhiều hơn, suy tính nhiều hơn, giảm bớt nhu cầu cá nhân nhiều hơn, kể cả phải tận lực hy sinh… Hình ảnh trên của người đan ông lần đầu làm cha  khẳng định một sự thật: Tình yêu cha mẹ dành cho con  trước hết là do huyết thống, vì con là con của cha mẹ.  Là con từ cha mẹ mà ra, mang huyết thống của cha mẹ,  thuộc dòng dõi gia tộc của cha mẹ, nên con thuộc về cha  mẹ và cha mẹ yêu con. Dòng máu nội, ngoại từ nay có hết trong con, vì con là kết tinh của huyết thống hai bên, nên con được cả hai họ nội ngoại thương yêu.  Huyết thống đã làm nên tương quan cha mẹ - con  cái, và từ đó thiết lập tương quan tình phụ tử, mẫu tử.  Chính vì thế mà người mẹ, trong những trường hợp có  mâu thuẫn hôn nhân, luôn bị hạch hỏi: ai là cha thật của  đứa bé? Điều đó nói lên sự cần thiết của huyết thống  trong tình yêu cha mẹ đối với con cái.  Từ nguyên tắc huyết thống, chúng ta có những nhận  định sau:
1. Luật tự nhiên quy định : Ai sinh ra một người sẽ mãi là cha, mẹ của con người ấy
     Vì huyết thống làm nên tương quan cha mẹ - con cái,  nên không ai đổi được tương quan này, chỉ vì không thay  được huyết thống. Nếu hai người nam nữ đã giao hợp và  làm thành con người mới thì mãi mãi hai người này là  cha mẹ của đứa con được sinh ra. Họ không bao giờ mất  đi tính chất cha mẹ, vị thế cha mẹ, quyền lợi làm cha mẹ,  nghia vụ của cha mẹ đối với đứa con được sinh ra. Hai  người cũng không thể từ chối, hay “bán cái” danh hiệu  cha mẹ cho người khác. Những hủ tục bán con, cho con,  tất cả đều vô lý và lố bịch, không mang tính nhân văn,  đạo đức.  Mãi mãi là cha mẹ, hai người sinh ra một con người  mới sẽ đeo đẳng suốt đời nghia vụ làm cha mẹ, cho dù có lúc muốn từ nhiệm, tháo lui khỏi nhiệm vụ thiêng  liêng, cao cả đó.
2.  Luân lý, đạo đức xã hội và nghĩa vụ làm cha mẹ
     Xã hội nào cũng đặt bổn phận của cha mẹ đối với  con cái lên hàng đầu, và người không chu toàn bổn phận  nuôi dưỡng, giáo dục con cái bị xã hội lên án, coi thường.  Những cha mẹ được vinh danh là những người ý thức  trách nhiệm làm cha mẹ và tận lực giáo dục con cái nên người con ngoan, công dân tốt, láng diềng thân thiện…  Một cách minh nhiên, xã hội không cho phép cha mẹ  đao nhiệm, đao ngũ, đao tẩu khỏi tương quan cha mẹ  - con cái, vì huyết thống tự nhiên đã nối kết, tạo thành.
3. Lương tâm của cha mẹ
    Lương tâm là tiếng nói không bao giờ mệt mỏi, lười  biếng. Lương tâm nói cho chủ thể biết việc tốt phải làm,  việc xấu phải tránh. Lương tâm đem lại niềm vui thư  thái, hạnh phúc dạt dào khi việc thiện, việc tốt được  chủ thể thực hiện, và cắn rứt, trách mắng, trừng phạt  khi chủ thể cố ý làm điều xấu, hành động gian ác, nhẫn  tâm. Tiếng lương tâm không bao giờ tắt, và con người  không thể thoát khỏi vùng phủ sóng của lương tâm, vì  lương tâm là con “chíp” kỳ diệu Thượng Đế đã gắn sẵn  trong từng người, mà con người, dù tài giỏi đến đâu cũng  không thể lấy ra, tháo bỏ.
     Cũng có những trường hợp lương tâm bị che phủ,  nhạt mờ, không còn nhạy bén, nhưng đó chỉ là tai nạn  nhất thời, vì lương tâm vẫn luôn ở đó, kín đáo nhưng  mãnh liệt, ẩn mặt nhưng hiệu quả khôn lường, im lìm  nhưng luôn có mặt hoạt động.  Cuộc sống nhiều khó khăn, nên đã có những bà mẹ  bỏ con khi con mới chào đời, hay bỏ bê, kể cả bán con. Những bà mẹ khốn khổ này sau đó thường rơi vào tình  trạng u uất, bị lương tâm cắn rứt, day vò. Nhiều người  hóa khùng điên, vì không chịu nổi sức nặng của tội xưa. Họ là những người mẹ bất hạnh, rất đáng thương phải  sống những ngày còn lại của đời mình trong tiếc nuối  khôn nguôi.  Người viết quen bốn đứa bé cùng một gia đình đã  bị mẹ bỏ rơi khi đứa lớn nhất mới chín tuổi. Hoàn cảnh  của người mẹ này vào thời đó quả là không có gì phải  bỏ con, vì bà ta có tiền, lại có tiếng. Nhưng vì quá mê  say một người đan ông có thế lực, bà ta hy sinh cả bốn  đứa con còn nhỏ dại đi theo tiếng gọi của tình yêu mới…  Cha của bốn đứa bé là si quan, đi học tập, nên hoàn toàn  bất lực, không giải quyết được gì. Cũng vì buồn tủi, ông  chết trong trại cải tạo một năm sau câu chuyện buồn.  Bẵng đi một thời gian khá lâu, tôi tình cờ gặp lại cả  bốn đứa. Chúng nó bây giờ là bác si, luật sư, kỹ sư ở Mỹ. Chúng nó kể: Ngày mẹ theo ông ấy đi Mỹ, bỏ lại bốn  đứa, chúng nó ở với bà ngoại, đi ăn xin để kiếm sống từng ngày. Bỗng một đêm, cả bốn đứa thấy mình ở trong  thuyền giữa biển khơi với gia đình người hàng xóm. Số  là ông hàng xóm nhân hậu đã cảm thương hoàn cảnh quá  bi đát của bà cháu đã rộng lòng đem cả bốn đưa cùng  vượt biên với gia đình ông.  Vấn đề là cả bốn đứa tuy biết mẹ đang ở Úc, với  người đan ông năm xưa mà mẹ đã đi theo, ông ta bị tai  biến nặng và mẹ là người đang chăm sóc ông, nhưng cả  bốn đứa đều quyết liệt không nhận người mẹ năm xưa  là mẹ, và dứt khoát không liên lạc, dù đã nhiều lần, qua  nhiều người, người mẹ bất hạnh đã nhắn lời xin được  liên lạc với các con. Thảm cảnh có thật, rất thảm không chỉ cho bốn đứa  con bé bỏng hôm nào không cha không mẹ, phải đi ăn  xin, mà còn thảm cho người mẹ hôm nay đang gặm  nhấm cô đơn, ngày qua ngày héo hắt trong day dứt, sầu  buồn vì đã ham vui quên đời làm mẹ.  Điều muốn nói ở đây là lương tâm không bao giờ  buông tha con người, vì lương tâm là tiếng nói đạo đức  của con người, nên bao lâu con người sống, bấy lâu  lương tâm có mặt. Càng về già, người ta càng phải đối  diện nhiều hơn với lương tâm, có lẽ vì tuổi gia là tuổi  nhớ lại, tuổi tìm về ký ức, nên tuổi già hay trầm tư. Có  thể trong những nét trầm tư ấy thấp thoáng nỗi buồn vì  trách nhiệm cha mẹ đã không tròn.
Đến đây, chúng ta đồng ý với nhau: Huyết thống giữ vai trò quan trọng trong tương quan cha mẹ - con cái;  nói cách khác, chính huyết thống làm nên tương quan  cha mẹ - con cái. Khẳng định điều này cũng chính là  phủ định việc “từ con” thường thấy đó đây, khi cha mẹ  không còn muốn nhận con mình là con mình. Có một thời, trên các tờ báo Sài Gòn, người ta thi  nhau đăng nhan nhản những mẩu tin theo kiểu: “Tôi  Nguyễn Văn Mẽo là cha của Nguyễn Văn Mỗ tuyên bố  từ con, và kể từ nay tôi không còn là cha của Mỗ nữa. Ai  chứa chấp hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật”.  Đọc những công bố từ con này, chúng ta không khỏi  bất ngờ vì những phi lý của vấn đề.
a. Phi lý nội tại
      Vấn đề là ông Mẽo, cha của Mỗ là người đã sinh ra  Mỗ. Vì sinh ra Mỗ, nên dù có làm gì, có đăng báo nhiều  kỳ, lên truyền hình nhiều buổi, Mỗ vẫn là con ông. Sẽ  không có ai lấy ra khỏi ông cái chất “cha” của ông đối  với Mỗ là con ông. Cũng không có cơ quan, cơ chế nào  xoá được liên đới cha - con giữa ông và Mỗ, con ông. Đẻ  ra Mỗ, theo ngôn ngữ hằn học hợp nhất với ông bây giờ  là ông “bị kết án chung thân” làm cha của Mỗ, và cho  đến tận thế, mọi người vẫn chỉ nhìn nhận một mình ông  là cha của Mỗ, con ông.
Nội tại của vấn đề là ông là cha của con ông, và điều  này là muôn đời không thể thay đổi.
b. Phi lý xã hội
     Xã hội loài người chỉ có quyền chứng nhận ông là  cha của con ông khi làm giấy khai sinh cho đứa bé, trên  đó có ghi tên ông là cha; ngoài ra chẳng có cơ chế, định  chế xã hội nào có quyền hủy bỏ quan hệ cha - con của  ông và Mỗ, con ông. Không một luật pháp xã hội nào  cho phép từ con, vì nếu như thế, những cha mẹ vô trách  nhiệm sẽ cứ bừa bãi sinh con, rồi hủy bỏ khai sinh, đăng  báo từ con khi cần.  Khi đăng báo từ con, ông nghi mấy dòng chữ trên  báo đã đủ cắt đứt quan hệ cha con của ông; một ô vuông  ở trang chót tờ báo đã quyết định ông không còn trách  nhiệm làm cha với con ông. Nếu tất cả xảy ra như ông  nghi, thì quả thực con cái được sinh ra rẻ hơn bèo, và  thấp hơn cả con vật.  Sở di cho phép so sánh “thấp hơn con vật”, vì con vật  biết nuôi con cho đến khi con lớn, tự lo được. Chim mẹ  chỉ rời con sau khi đã tập bay cho con, và biết chắc con  sẽ một mình bay được trong trời rộng. Chó con cũng chỉ  xa mẹ khi đã đủ lớn, biết kiếm ăn. Gà con cũng vậy…  Và đặc biệt, không một động vật nào bỏ con, như con  người vô cảm đăng báo từ con.
     Có thể những cha mẹ này vì quá bức xúc, không còn  chịu đựng được những ngỗ nghịch của đứa con hoang  đang, nhất là khi danh dự gia đình, gia tộc bị xâm phạm,  làm nhơ nhuốc; cũng có thể vì tránh một trách nhiệm  dân sự nào đó. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, tình huống,  từ con là một phi lý không thể chấp nhận được, và hậu  quả sẽ tai hại không chỉ cho người cha từ con, đứa con bị  từ, mà còn ảnh hưởng xấu đến cả xã hội.
4. Trách nhiệm sẽ không thuộc về ai, ngoài cha mẹ
Cha mẹ “từ con” lầm tưởng: Trách nhiệm làm cha  mẹ có thể cởi bỏ, luân chuyển hoặc trút bỏ trên vai người  khác khi mình không thích mang lấy trách nhiệm. Hiểu  như thế là sai lầm, vì trách nhiệm ấy là tự thân; nghia là:  Đã là cha mẹ thì có trách nhiệm thương yêu con. Trách  nhiệm thương yêu là trách nhiệm lớn nhất, chính yếu  và là nguồn, là mẹ của các trách nhiệm khác. Cha mẹ  có trách nhiệm nuôi nấng, vì yêu con; cha mẹ có trách  nhiệm giáo dục con nên người, vì thương con; cha mẹ có  trách nhiệm thưởng phạt, sửa trị, khuyến khích vì dành  cho con hết tình; cha mẹ có trách nhiệm xây dựng tương  lai, sự nghiệp cho con, vì trái tim cha mẹ được đời con  lấp đầy. Vì mang trách nhiệm yêu thương khi cho con vào  đời, cha mẹ không thể cởi bỏ trách nhiệm này, vì nó  không ở ngoài cha mẹ, hay là đồ phụ tùng đeo bên cạnh  cha mẹ; trái lại nó là chính cha mẹ, một trách nhiệm gắn liền phận làm mẹ, vị thế làm cha. Tự thân, nên không thể  bóc gỡ, tháo ra. Tự thân, nên không thể chuyển nhượng,  càng không thể “tuyên bố không còn trách nhiệm trên  con”, vì đó là một phi lý kệch cỡm đến nực cười. Nhìn vào trường hợp ông Mẽo, khi tự ý từ con, ông  công khai tuyên bố “ai chứa chấp sẽ hoàn toàn chịu trách  nhiệm”. Ông viết như thế, tuyên bố như vậy, nhưng thực  ra là đổ vấy trách nhiệm cho bất kỳ ai, miễn là từ nay  ông không còn phải lo gì cho thằng Mỗ. Ông bảo người  khác đừng chứa chấp, trong khi bổn phận phải chứa chấp  Mỗ chính là ông. Ông quên bẵng một điều là chẳng ai  có thể lo cho con ông như một người cha đẻ lo cho con  mình, dù người đó là cha nuôi. Từ con là chuyện của  ông, nhưng con ông vẫn mãi là con ông, và trách nhiệm  của người cha đẻ ra nó cũng chẳng bao giờ đổi chủ.  Từ chối trách nhiệm làm cha mẹ, qua màn “từ con”  thiết nghi là việc làm đầy mâu thuẫn và lố bịch, vì tự nó  đã là một phi lý tận cùng! Tuy phi lý, nhưng vẫn còn những cha mẹ tiếp tục lạc vào mê lộ “từ con”. Hai lý do nền tảng đã đưa đẩy cha  mẹ “vô trách nhiệm” đến quyết định sai lầm này:
5.Cha mẹ nhìn con như một vật sở hữu, không như một nhân vị, và dành toàn quyền trên con
      Quan niệm này thường gặp khi dân trí thấp, và xã  hội còn nhiều khó khăn kinh tế, ở đó cha mẹ dễ rơi vào cám dỗ bán con khi cần tiền, từ con khi không còn dạy  bảo được chúng. Nghèo kéo theo thiếu giáo dục: Cha  mẹ thiếu khả năng giáo dục con, thiếu điều kiện giáo  dục con, nên con cái không được giáo dục đầy đủ để  thay vì là người tốt, đã biến thành những kẻ quấy nhiễu,  phá hoại.  Ở vào tình thế phải giải quyết, cha mẹ vốn quan  niệm con như sở hữu và mình có toàn quyền trên con  sẽ không ngần ngại xua đuổi, mua bán, hay từ bỏ con. Nhân vị của con chưa bao giờ được cha mẹ nghi tới, nói  chi tôn trọng. Giá trị làm người của con không hiện hữu  trong tâm óc cha mẹ, nói chi phải bảo vệ, giữ gìn. Con cái không hơn một sản phẩm, một món hàng hỏi làm sao  không dễ bị trao đổi, chuyển nhượng, sử dụng, rồi bỏ đi.  Không nhìn con cái như những nhân vị tự do, bất khả  xâm phạm, bất khả chuyển nhượng, bất khả thay thế, bất  khả hủy diệt, những nhân vị mang những giá trị thiêng  liêng thì cha mẹ không thể yêu thương và chu toàn trách  nhiệm yêu thương, bởi chỉ có giá trị cao cả của nhân vị  mới giải thích được tại sao cha mẹ hết tình yêu thương  và hết mình hy sinh vì hạnh phúc của con cái.
6. Cha mẹ chỉ nhìn vào quá khứ, hiện tại của con, mà quên “con còn một tương lai trước mặt”
     Những tiếng nguyền rủa kinh dị của một người mẹ  mà tôi tình cờ nghe được hôm nào: “Mày chết đi cho rồi, sống làm gì cho chật đất” làm tôi đau nhói khi nghi đến  đứa con đang thút thít, nép mình ở góc nhà.  Lời nguyền rủa của người mẹ sẽ không qua đi dễ  dàng, quên đi nhanh chóng, nhưng được ghi cẩn thận  trong tâm khảm của đứa con bị nguyền rủa. Em sẽ nhớ  mãi… nhớ hoài và buồn sâu đậm, bởi lời kết án cay  chua, độc ác của mẹ đã phần nào làm sụp đổ hình ảnh  đẹp của mẹ trong em, đồng thời kéo em xuống hàng “vô  tích sự”, “sống làm gì cho chật đất”.  Nguyền rủa con, bán con, từ con, ngoài hành vi phủ  nhận nhân vị, còn là việc làm xoá bỏ niềm tin, và hy  vọng vào tương lai của con. Khi nguyền rủa con “biến đi  khỏi thế giới này”, cha mẹ vô trách nhiệm đã hoàn toàn  phủ nhận con còn có một tương lai trước mặt. Bởi không  nhận con còn tương lai để nên tốt hơn, còn tương lai để  ra khỏi bế tắc hiện tại, cha mẹ dìm con xuống tận đáy  sâu tuyệt vọng, khi khép kín mọi cánh cửa vào tương lai  đầy tràn hy vọng.  Khi quên tương lai của con, cha mẹ cũng quên hẳn  con là một hữu thể hướng về Chân-Thiện-Mỹ tuyệt đối.  Nhờ hướng về những thực thể tuyệt đối này mà con cái  luôn có khả thể đổi mới, trở nên tốt hơn, và đạt thành  công, hạnh phúc trong cuộc đời. Hạ thấp khả năng của  con, cũng như khép chặt tương lai của con là việc làm  đáng trách của cha mẹ, đáng trách vì tính cách vô trách  nhiệm đã ở mức trầm trọng mang đến hậu quả tai hại là  phá hoại cuộc đời của con.

Quý độc giả vui lòng đọc tiếp chương 5 : http://tinmungduongpho.blogspot.com/search/label/CMYT-chuong5