1. Bình an của Giáng Sinh
và Phục sinh
Đêm
Noel chúng ta long trọng và phấn khởi, hân hoan hát kinh Vinh Danh : “Vinh
Danh Thiên Chùa trên các trời, và bình
an dưới thế cho người thiện tâm”. Sau 4 tuần muà vọng im lìm tiếng hát Vinh
danh. Chúng ta hát vang Bình An của Hài Nhi Giêsu, là Con Thiên Chúa mang đến
cho nhân loại trong đêm Ngài xuống trần gian làm người.
Chúng
ta hát Bình An là mơ ước của con người, vì hạnh phúc lớn nhất của con người là được
bình an : bình an trong tâm hồn, bình an trong gia đình, bình an trong cộng đoàn,
bình an trong thôn xóm, bình an trên quê hương, đất nước, bình an cho toàn thể
nhân loại, cho hết mọi quốc gia. Người ta có thể có tất cả mọi thứ, mọi sự, mọi
quyền hành, phương tiện xa hoa, sung túc, nhưng thiếu bình an, dù là bình an
trong tâm hồn rất kín đáo, âm thầm, hay bình an trong gia đình mà ai cũng thấy được,
chúng ta sẽ không được kể là người hạnh phúc. Và mức độ có bình an, được bình
an đánh giá, định lượng, đo lường hạnh phúc của chúng ta.
Rồi
đêm vọng phục sinh, cũng với niềm vui khấp khởi, rạo rực, chúng ta lại cùng cất
tiếng hát kinh Vinh Danh, sau mùa chay dài lặng lẽ xám hối, ăn năn, và tuần thánh
tử nạn im lìm, nặng nề một gánh tang thương, chết chóc. Tất cả các bài Tin Mừng trong lễ phục sinh và
trong tuần bát nhật phục sinh đều kể về những lần Đức Giêsu phục sinh hiện ra với
các tông đồ, môn đệ, và lần nào có mặt giữa các ông, Đức Giêsu phục sinh đều âu
yếm chúc bình an, ân cần ban bình an của Ngài cho họ. Chỉ trong một đoạn trình
thuật ngắn, có đến hai lần Đức Giêsu phục sinh nói với các môn đệ : Bình an cho
anh em : “Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, cửa đều
đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái”. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói:
“Bình an cho anh em.”. Nói xong, Người
cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Người
lại nói với các ông : “Bình an cho anh
em. Như Chúa Cha sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” (Ga 20, 19-21).
Khi
sinh ra, vì còn bé qúa, chưa biết nói, nên Đức Giêsu đã nhờ các thiên thần xuống
báo tin vui : Bình an cho người thiện tâm dưới thế. Nhưng khi sống lại từ cõi
chết, thì chính Ngài đã ban Bình an của Ngài cho các môn đệ.
Từ
khởi điểm của công trình nhập thể cứu chuộc là biến cố Giáng Sinh cho đến đích điểm
là biến cố phục sinh từ cõi chết, Đức Giêsu chỉ loan báo một Tin Mừng Bình An.
Xem chừng bình an là món qùa lớn , rất lớn mà Thiên Chúa muốn ban
cho con người. Và nếu là qùa của Thiên Chúa ban, thì nhất định, bình an không
thể là một ý niệm vu vơ, một bánh vẽ chúng ta tạo ra để lừa phỉnh nhau, hay một
quan niệm trừu tượng, mơ hồ, không thực và bất khả thi; trái lại, nếu Đức Giêsu
đã bắt đầu cuộc đời làm người của Ngài qua tin vui Bình An cho người thiện tâm được
các thiên thần loan báo trong đêm Giáng Sinh, và kết thúc nhiệm cuộc làm người để
cứu độ của Ngài bằng ân cần âu yếm ban Bình An như qùa tặng cho nhân loại, qua
trung gian các tông đồ, thì chắc chắn bình an phải là một giá trị có thực, một
thực tại gắn liền với con người, một sự
thật sống động và có mặt trong đời người, đặc biệt bình an phải là một giá trị
rất qúy báu, một kho tàng vô giá mà con người của mọi thời, mọi nơi hằng khao
khát, miệt mài, dầy công đi tìm, vì cuộc đời sẽ không thể là cuộc đời có ý nghiã,
cuộc đời đáng sống, cuộc đời đẹp, nếu
thiếu bình an.
Vâng,
quả thực bình an là hạnh phúc đích thực mà con người ở mọi nơi, mọi thời, từ
ông bà nguyên tổ đến người sau cùng rời bỏ sự sống trên thế giới này đều
mong ước đi tìm. Chúng ta nhìn vào ông bà nguyên tổ trong vườn Địa Đàng, sau
khi phạm tội, để hiểu rõ hơn giá trị của Bình An. Sách Sáng Thế đã chi tiết
trong tường thuật này và mạch lạc diễn tả:
·
Ađam , Evà đã một thời rất bình an, nhưng
chỉ một thời bình an khi còn ở trong tình nghiã cha con với Thiên Chúa, nhưng rồi
sau đó “mất bình an”; mất bình an nên mới ngượng ngùng , bối rối trả lời Thiên Chúa khi Ngài hỏi : “Ngươi ở đâu ? ”: “Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ
hãi, vì con trần truồng, nên con lẩn trốn” (St 3,10).
-
“Con nghe tiếng Ngài”: Nghe thấy
tiếng Thiên Chúa lúc này thật là một hình phạt, vì tiếng ấy xé nát tâm can con
người bất tuân, phản bội.
-
“Con
sợ hãi”: Tâm can bất ổn vì tội phản nghịch đã làm
mất “thiện tâm” nơi con người, vì thế khi đánh mất thiện tâm, con người sẽ “không dám giáp mặt Đức Chúa là
Thiên Chúa”, nhưng sợ hãi, hốt hoảng, lo âu (St 3,8).
-
“Vì
con trần truồng.”: Người ta không bình an khi sợ hãi, nhưng tại sao con
người sợ hãi ? Thưa vì thấy mình trần truồng. Từ ngữ trần truồng trong Kinh Thánh
có một ý nghiã đặc biệt : con người không còn nơi bám víu, nương tựa; là tình
trạng hoàn toàn trống vắng, cô độc, mất điểm tựa, mất hướng đi, mất hy vọng, mất tất cả. Ở trong tình trạng này, không ai có
thể bình an. Đức Kitô trần truồng trên thánh giá cũng đã trải nghiệm giây phút
cô độc, trống vắng, mất hy vọng này khi Ngài đau đớn thốt lên : “Lậy Cha, sao
Cha bỏ con ? ”. Trần truồng của ông bà nguyên tổ là tình trạng mất hết tương
quan Cha Con với Thiên Chúa, mất hết thiện tâm, thiện ý, thiện chí. Tắt một lời
là mất chính Thiên Chúa.
-
“Nên
con lẩn trốn”: Và việc làm sau cùng của tiến trình mất
bình an, chính là lẩn trốn. Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta thấy: bất cứ cuộc
bỏ trốn nào cũng là dấu chỉ, dấu hiệu, dấu chứng của mất bình an. Trốn chủ nợ, trốn thuế, trốn nghiã vụ quân sự, trốn quân địch,
trốn công an truy lùng, trốn đi vượt biên, trốn người quen vì thay đổi lý lịch,
trốn kẻ thù, trốn dư luận, trốn con mắt người đời… Tóm lại, bất kỳ trốn ai, trốn
cái gì đều làm con người bất an, lo âu, sợ hãi.
Như thế, con người bị tội
lỗi làm mất bình an, nhưng tội lỗi đã làm gì để con ngưòi phải mất bình an ?
a. Tội lỗi đã vào thế gian
qua đường bất vâng phục Thiên Chúa:
Có
2 loài thụ tạo có khả năng bất tuân phục vì có tự do lựa chọn, đó là thiên thần
và con người:
·
Vì bất tuân phục mà Luciphe đã bị cắt đứt
tương quan tình nghiã với Thiên Chúa.
Luciphe và bè lũ không còn là “thiên thần
phục vụ trước Thiên Nhan” vì không còn tình nghiã với Thiên Chúa.
·
Vì bất tuân phục, nguyên tổ cắt đứt tương
quan tình nghĩa với Thiên Chúa, khi ăn trái cấm, nên không còn là con Thiên Chúa
nữa, vì vơi ơn cạn tình với Thiên Chúa.
b. Bất tuân phục vì không
tín nhiệm và yêu mến:
Nếu
đã tin và yêu mến người nào, ta sẽ vâng phục người ấy, vì trước hết không muốn
người ấy buồn, không muốn người ấy nghi ngờ tình yêu của ta dành cho họ, vì tin
người ấy dù làm gì, làm cách nào, làm kiểu nào, làm khi nào, làm ở đâu cũng làm
vì thương ta, yêu ta, vì muốn xây dựng cho ta . Tóm lại, ta tin người ấy lúc nào
cũng mong muốn ta được hạnh phúc, “được sống và sống phong phú, dồi dào” (Ga 10,
10).
*
Luciphe đã không tin Thiên Chúa là Chủ Tạo và mình là thụ tạo, nên đã kiêu căng “muốn bằng Thiên Chúa.”
*
Nguyên tổ đã không tin Thiên Chuá dành hết mọi loài, mọi sự cho hạnh phúc của mình,
nhưng nghĩ Thiên Chúa còn dấu mình nhiều sự, nhiều điều, mà nếu mình tự khám phá
ra, mình sẽ không thua gì Thiên Chúa. Nghiã là không chấp nhận chỗ đứng chủ tạo
và Cha nhân từ, yêu thương của Thiên Chúa.
Như
thế, căn nguyên, cội rễ của tội là không tín nhiệm Thiên Chúa, không yêu mến Thiên
Chúa , nên không muốn vâng phục Ngài. Tội bắt nguồn từ thiếu tình yêu, vắng tình
yêu, cạn kiệt tình yêu, hạn hán tình yêu, không còn tình yêu đối với Thiên Chúa,
với anh em và với chính mình. Như thế, là tội nặng khi tình yêu bị tổn thương,
xúc phạm nặng nề, và tội nhẹ khi bổn phận
đối với tình yêu không được chu đáo, trọn vẹn thi hành.
c. Không tình yêu, tín nhiệm,
mọi tương quan sẽ bất ổn :
Bất ổn trong tương quan với Thiên Chúa, bất ổn
trong tương quan với tha hân, bất ổn
trong tương quan với chính mình:
·
Mất tương quan Cha - Con với Thiên Chúa,
ra khỏi vùng phủ sóng của lòng thương xót.
·
Mất tương quan anh em với người khác, vì
ghen tương, ganh ghét: Qua câu chuyện Cain - Abel trong Sáng Thế
4,1-10, chúng ta nhận thấy :
-
Cain và Abel là con cùng cha cùng mẹ là
Ađam và Evà, nhưng không vì thế mà tự nhiên sẽ thương yêu nhau. Trái lại, Cain
ganh ghét em Abel đã đi đến bạo lực giết em mình. Điều này cho thấy: người ta
không là anh em một cách tự nhiên, nhưng phải học làm anh em, dù là anh em cùng
cha cùng mẹ.
-
Tình yêu không tự nhiên mà có, nhưng phải
kiếm tìm, xây dựng bằng đề phòng cẩn mật lòng ganh ghét, ghen tuông luôn rình rập
và “nằm ở ngưỡng cửa nhà” mỗi người.
-
Tội lỗi bắt đầu từ thiếu tình yêu, là cơ
hội cho lòng ghen tuông, ganh ghét bùng lên thống trị, lộng hành. Ghen tuông là sự vắng mặt của tình yêu, là tội
chống lại tình yêu, là chính tội lỗi đã hủy hoại tất cả bình an, hạnh phúc của
con người, đốt cháy mọi tương lai, hy vọng.
Ghen tuông đưa đến bạo lực vì đích tới của ghen tuông luôn là tiêu diệt,
khử trừ đối phương, xoá tên địch thủ. Bởi thế, khi ghen tuông, người ta luôn tìm cách diệt đối thủ, lập trình âm mưu và ma
giáo thủ đoạn để làm cho đối phương không còn hiện hữu.
-
Do đó, điểm tới của ghen tuông, ganh ghét
chính là bạo lực tiêu diệt, như Cain đã dụ em mình ra đồng để giết chết.
-
Hậu qủa của ghen tuông là làm xáo trộn,
mất trật tự, không còn bình an: làm xáo
trộn và hủy hoại tương quan anh em ruột giữa Cain và Abel; gây ra sự chết cho
Abel, đau buồn cho ông bà Ađam, Evà, và nhất là hình phạt bất an trong lương tâm,
bất ổn trong đời sống cho chính hung thủ Cain : “Giờ đây, ngươi bị nguyền rủa bởi
chính đất đã từng há miệng hút lấy máu em ngươi, do tay ngươi đổ ra. Ngươi có
canh tác đất đai, nó cũng không còn cho ngươi hoa mầu của nó nữa. Ngươi sẽ lang
thang, phiêu bạt trên mặt đất”. Cain thưa với Đức Chúa : “Hình phạt dành cho
con qúa nặng, không thể mang nổi. Đây hôm nay Ngài xua đuổi con khỏi mặt đất.
Con sẽ phải trốn tránh để khỏi giáp mặt Ngài, sẽ phải lang thang phiêu bạt trên
mặt đất, và bất cứ ai gặp con sẽ giết con ” (St 4,11-14).
Cũng lại giống cha mẹ mình, Cain bị Thiên Chúa xua đuổi,
không còn dám giáp mặt Ngài, phải trốn tránh mọi người, nếu không sẽ bị giết.
Qủa thực, bình an là hạnh phúc đích thực của
con người, bởi đói mà có bình an vẫn hơn no đủ, sung túc mà lo ngay ngáy, sợ thấp
thỏm; nghèo mà có bình an vẫn hơn đại gia mà đêm ngủ không yên vì lo sợ kẻ này
rình rập, người kia theo dõi, truy lùng, tố cáo, vạch trần; vất vả mà bình an vẫn
thấy đời đáng sống, đáng yêu hơn có tất cả mà nơmn nớp lo âu, hồi hộp sợ hãi.
d. Bình an là hạnh phúc của
tình yêu, như người ghen tuông, ganh ghét chẳng bao giờ có được bình an:
Đêm
Noel Thiên Chúa chỉ hứa ban bình an cho người thiện tâm, tức những người có lòng
nhân, những người biết yêu thương, có thiện chí yêu thương; cũng như Đức Giêsu
chỉ ban bình an của Ngài, sau khi Ngài đã chết vì yêu thương, để nói lên chân lý: bình an là hoa trái của tình yêu quên mình; bình
an là trái ngọt của cây thập tự tình yêu; bình an là kết qủa của cuộc chiến đấu
chống lại cám dỗ của ghen ghét, hận thù, bạo lực ; bình an là đất hứa chảy sữa
và mật ong sau tháng ngày vượt qua biển đỏ nguy hiểm và sa mạc hoang vu, đêm lạnh
cắt da, và ngày nắng cháy thịt, như chúng
ta hằng ngày phải chiến đấu với chính mình, với hoàn cảnh bên ngoài, để lòng ghen tuông, ganh ghét, hận thù không
chế ngự được mình , nhưng mình chế ngự nó, như
sách Sáng Thế đã ghi: “Nếu ngươi hành động không tốt, thì tội lỗi đang nằm
phục ở cửa, nó thèm muốn ngươi; nhưng ngươi phải chế ngự nó.” (St
4,7). Tội lỗi đây chính là lòng ganh ghét, ghen tuông.
2.
Yêu
thương để có bình an:
Đơn
giản là yêu thương sẽ có bình an. Người yêu thương là người thiện tâm, nên có được
bình an mà thiên thần loan báo trong đêm giáng sinh. Người yêu thương là môn đệ
Đức Giêsu, nên mới nhận được bình an phục sinh của Ngài. Cả hai đều thuộc về Đức
Giêsu, vì thế, ơn bình an của đêm giáng sinh, cũng là ơn bình an của buổi sáng
phục sinh sẽ được ban cho những người thiện tâm, biết yêu thương, cố gắng yêu
thương và dám yêu thương, bởi yêu thương không dễ, vì con
người luôn bị thúc đẩy ganh ghét, bị cám dỗ thị phi, bị lôi kéo ghen tuông, nên
dễ rơi vào căm phẫn, hận thù, như kinh
thánh đã qủa quyết : “Tội lỗi, tức lòng ganh ghét, đố kỵ, tị hiềm nằm phục sẵn
ngay cửa nhà ngươi”.
Yêu
thương là cuộc vượt qua nhiều thứ, vượt qua xác thịt thích được nuông chiều,
cung phụng, để sẽ không trở thành nô lệ
của dục tính, đồng thời không biến người khác thành nô lệ phục vụ những đòi hỏi
bất chính của thân xác mình. Vượt qua rào cản của vật chất, để của cải không thành
ông chủ, và mình cũng không tàn ác, bất nhân làm giầu bằng cách bóc lột ngừơi
khác. Yêu thương còn đòi vượt qua chính mình, tức “cái tôi” luôn mang nhiều xác
xuất ích kỷ, nhiều khuynh hướng khép kín, nhiều cơ hội kiêu căng, nhiều luận chứng
ngụy biện để không phải chia sẻ, hiến trao, đồng hành.
Tóm lại,
yêu thương không dễ, nên phải cố gắng hằng ngày, liên lỷ phải vác thánh giá mình;
yêu thương không đơn giản, nên đôi lúc phải gồng mình toát mồ hôi máu như Đức
Giêsu trong vườn Cây Dầu, khi quyết định lên đường chịu nạn để thực hiện đến cùng
tình yêu cứu độ; yêu thương không nhẹ nhàng, nên không thiếu những phút giây nặng
nề, căng thẳng, tan nát tim gan, rối bời óc não để có thể liều lĩnh thứ tha cho
kẻ thù. Nhưng cũng vì khó, vì đòi hỏi hy sinh, đổ máu, mà hoa trái của tình yêu
là hoa thơm trái ngọt, là hạnh phúc, là trọn vẹn thiên đàng, là qùa tặng qúy giá
của Đức Giêsu phục sinh: ơn Bình An.
Như
những con người thiện tâm đi tìm bình an theo ánh sao giáng sinh chỉ đường dẫn
lối, cũng như các môn đệ của Đức Giêsu phục sinh đóng kín cửa, thấp thỏm chờ đón
ơn bình an phát sinh từ hiến lễ thánh giá, chúng ta cũng muốn mở lòng đón nhận tin
mừng bình an, ơn bình an của Đấng Cứu độ. Ơn ấy giúp chúng ta “ nhẫn nhục, hiền
hậu, không ghen tuông, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính,
không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự
gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật” (1Cr 13,4-6). Được những điều tốt đẹp,
tích cực ấy, chúng ta là những người có phúc vì được yêu thương, và yêu thương;
có phúc vì được bình an mọi lúc, mọi nơi, “khi tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả,
hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13, 7).
Những điều tốt đẹp tuyệt vời này vừa
là hoa trái của tình yêu, vừa là điều kiện của tình yêu, để nhận được ơn Bình
An đích thực của chính Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người.
Jorathe Nắng Tím