Ngoại trừ lời hứa: “Ai cho anh em một
chén nước, vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó
sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mc 9,41), Đức Giêsu đã không làm các môn đệ và
những người có mặt hôm ấy thỏa mãn với câu trả lời và cách giải quyết đanh
thép, sắt máu, nếu không nói là tàn bạo của Ngài:
Trả lời ông Gioan, Đức Giêsu đã làm
các môn đệ chưng hửng, khó chịu khi bảo các ông: “Đừng ngăn cản người ta” (Mc
9,39), người ta đây là những người không thuộc phe nhóm của Ngài mà lại lấy
danh Ngài trừ qủy; người ta đây là những người không có thẻ đảng Giêsu như Nhóm
Mười Hai mà lại lấy danh nghiã Giêsu hành xử nổi đình nổi đám như mô đệ chính
danh khi xua đuổi thành công nhiều tà thần, ma qủy.
Qủa thực, các môn đệ Đức Giêsu đến
lúc đó vẫn không thể tưởng tượng được Đức Giêsu lại mở toang mọi cánh cửa của
phe nhóm, và chấp nhận dễ dàng người khác chưa được mình thâu nạp nhân danh
mình làm phép lạ, trừ qủy. Não trạng khép kín, đóng chặt, cục bộ, độc quyền, co
cụm nơi các môn đệ bỗng bị Đức Giêsu chặt đứt, bật tung, như hòn đá đóng kín cửa
mồ bất ngờ bị nhấc bổng cho ánh sáng và
làn khí sự sống từ bên ngoài ùa vào. Các ông vừa bỡ ngỡ vừa bực doc, vì thái độ
cởi mở, và tinh thần phóng khoáng, không loại trừ của Đức Giêsu, khi Ngài quả
quyết: “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta” (Mc 9,40), bởi cứ sự
thường và một cách khôn ngoan, người ta không nên mở cửa và phóng khoáng đón nhận
dễ dàng người ở ngoài, xa lạ, khi phe nhóm mình chưa thực sự được củng cố, xây
dựng vững chắc.
Thật không có vị Thầy nào đã có tâm
hồn quảng đại, hào sảng và độ lượng, tín nhiệm người khác như Đức Giêsu; trái
ngược với các môn đệ và phần đông người có đạo đã khư khư giữ đạo mà không truyền
đạo, kín cổng cao tường để đạo không bị biến thái, mất mầu thay vì mạnh dạn giới
thiệu và rộng rãi chuyển tải đạo cho mọi người. Ở đây, chúng ta không thể không
nhận mình qúa ích kỷ khi chỉ muốn lên thiên đàng một mình và độc quyền phân
phát ơn sủng, trong khi Thiên Chúa cần chứng nhân, ngay cả chứng nhân ấy chưa
biết đích xác tên Thiên Chúa, và sống một cách khác, làm chứng một cách khác.
Điều quan trọng là họ làm chứng một cách trung thực và đúng đắn bằng thành tâm
tìm kiếm chân lý, sự công bình và con đường dẫn đến Nước Thiên Chúa. Về phần
chúng ta, những người được coi là môn đệ Đức Giêsu, chúng ta phải chấp nhận bị
làm phiền, nhờ thế chúng ta ra kkỏi pháo đài đức tin an toàn của mình, để có một
cái nhìn mới cho phép chúng ta nhận ra Thiên Chúa qua muôn ngàn hình thái, cách
thức làm chứng về Ngài. Và trên tất cả, ý thức quan trọng nhất vẫn là ý thức về
Chúa Thánh Thần, Đấng là sức sống của Giáo Hội, là Đấng hoàn toàn tự do trong
công trình sáng tạo và cứu độ nhân loại, tự do như gió muốn thổi đâu tùy ý, chẳng
ai biết gió đến từ đâu và chẳng ai biết gió sẽ đi đâu.
Phần ba của Tin Mừng lại càng khó
nghe, khó chịu, khi Đức Giêsu với ngôn từ chặt chém, rùng rợn: “Ai làm cớ cho một
trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ
nó mà ném xuống biển còn hơn. Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó
đi; thà cụt một tay mà được vào cõi hằng sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải
sa hỏa ngục, phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì
chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn có đủ hai chân mà bị
ném vào hoả ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi; thà chột mắt
mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hỏa ngục,
nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt” (Mc 9,42-48).
Chỉ nghe thôi cũng đủ lạnh người,
khiếp sợ: lạnh người vì luật của Đức Giêsu ban bố không khác gì luật Charia của
những người Hồi Giáo cực đoan áp dụng hình phạt chặt tay, chặt chân, khoét mắt,
ném đá, treo cổ những ai vi phạm; khiếp sợ vì sẽ chẳng còn ai lành lặn thân xác
khi lên thiên đàng, bởi trong cuộc sống, mắt ai sẽ không nhìn điều xấu, tay ai
sẽ không làm điều chẳng lành, và chân ai sẽ chẳng đến những nơi tội lỗi? Cả một
nhân loại tàn phế, đui chột, què cụt, hứa hẹn một thiên đàng toàn các thánh
không toàn thây. Nghĩ mà sợ hãi, kinh
hoàng !
Trước hết, chúng ta phải hiểu: Đức
Giêsu đã nói bằng ngôn ngữ kinh thánh. Theo ngôn ngữ này, không có từ ngữ chỉ
toàn thể thân xác, nhưng người ta chỉ thân thể bằng dùng tên một chi thể tùy
theo công việc và hoàn cảnh được đề cập. Thí dụ ngôn sứ Isaia đã không dùng một
từ nào đó để chỉ nhà thừa sai trên đường truyền giáo, nhưng dùng từ bước chân: “Đẹp
thay trên đồi núi, bước chân người loan báo Tin Mừng, công bố ơn bình an, người
loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ” (Is 52,7). Cũng thế, để chỉ một hành động,
ngôn ngữ kinh thánh dùng: “Hãy làm điều mà tay ngươi nắm bắt được”; để chỉ một chọn
lựa: “Hãy làm điều mà mắt ngươi thấy tốt”; để chỉ tâm tình ngợi khen: “Hãy mở lớn
miệng lưỡi ngươi”. Trong đọan Tin Mừng này, Đức Giêsu cũng không ra ngoài quy luật chung của ngôn ngữ Do Thái, khi dùng tay, chân, mắt để chỉ toàn
thể thân xác, nên không thể quy cho Ngài chủ trương tàn phá thân xác, hủy hoại
thân thể như hình phạt.
Chân lý quan trọng Đức Giêsu muốn nói
ở đây chính là thân xác con người thuộc về Thiên Chúa, bởi thân xác của người
nam hay người nữ cũng đều do chính tay Thiên Chúa tạo dựng, chỉ khác người nam
từ bụi đất và người nữ từ xương sườn của người nam (St 2, 21-22). Điều này muốn
nói lên: Thân xác chỉ là thân xác khi thuộc về Thiên Chúa, bởi được tạo dựng bởi
Thiên Chúa, nên thân xác sẽ không có lịch sử, không có tương lai, cũng không là
gì hết và chỉ đáng bỏ đi, nếu thân xác không hoạt động nhờ Thiên Chúa, với
Thiên Chúa và trong Thiên Chúa. Nói cách khác, thân xác sẽ không mang một giá
trị và ý nghiã nào, nếu tự tách ra khỏi Thiên Chúa. Hình ảnh cưa chân, chặt
tay, móc mắt là hình ảnh toàn thể thân xác không còn thuộc về Thiên Chúa nữa,
và một khi không còn ở trong Thiên Chúa, thân xác sẽ tự hủy diệt và mất sức sống
thần linh dẫn đến bất hạnh đời đời. Khi nói đến các chi thể như chân, tay, mắt,
Đức Giêsu đã dùng ngôn ngữ kinh thánh để diễn tả chân lý: toàn thể thân xác phải
thuộc về Thiên Chúa, và chỉ khi thuộc về Ngài, thân xác mới thực sự sống và hạnh
phúc trong sứ mệnh đồng hành với linh hồn.
Đồng hành với linh hồn, tức ở trong
Thiên Chúa, thân xác sẽ làm nhiệm vụ chuyển tải sự sống thần linh cho người khác.
Với thân xác, linh hồn biểu hiện sự sống siêu nhiên và làm cho sự sống siêu
nhiên được sinh động trong thế giới loài người. Để hiểu rõ hơn vai trò chuyển tải
sức sống thần linh của thân xác có Thiên Chúa, chúng ta đọc câu chuyện ngôn sứ
Êlisa đã truyền sức sống của mình cho đứa trẻ đã chết: Khi ông Êlisa tới nhà
thì cậu bé đã chết, nằm trên giường của ông. Ông đi vào chỗ cậu bé, đóng cửa lại,
chỉ còn lại hai người ở bên trong, rồi cầu nguyện với Đức Chúa. Ông lên giường
nằm lên trên đứa trẻ, kề miệng ông trên miệng nó, đặt bàn tay ông trên bàn tay
nó. Ông cứ nằm trên đứa trẻ, và da thịt nó nóng lên. Ông đi đi lại trong nhà, rồi
lại lên nằm trên nó; cậu bé hắt hơi đến bảy lần, và mở mắt ra ( 2V 4,32-35).
Ngôn sứ Êlia cũng có cùng kinh nghiệm truyền sức sống cho đứa con trai một bà
goá được thuật lại trong sách Các Vua quyển 1: “Sau các sự việc đó, đứa con
trai của bà ngã bệnh. Bệnh tình trầm trọng đến nỗi nó tắt thở. Bà nói với ông
Êlia: “Hỡi người của Thiên Chúa, việc gì đến ông mà ông đến nhà tôi để nhắc lại
tội tôi, và làm cho con tôi phải chết?” Ông Êlia trả lời: “Bà đưa cháu cho tôi”.
Ông bồng lấy đứa trẻ bà đang ẵm trong tay, đem lên phòng trên chỗ ông ở, và đặt
nó nằm trên giường. Rồi ông kêu cầu Đức Chúa rằng: “Lậy Đức Chúa, Thiên Chúa của
con. Chúa nỡ hại cả bà goá đã cho con ở nhờ, mà làm cho con bà phải chết sao?”
Ba lần ông nằm lên đứa bé, và kêu cầu Đức Chúa rằng: “Lậy Đức Chúa, Thiên Chúa của
con, xin cho hồn vía đứa trẻ này trở về với nó!” Đức Chúa nghe tiếng ông kêu cầu,
hồn vía đứa trẻ trở về với nó và nó sống. Ông Êlia liền bồng đứa trẻ từ phòng
trên xuống nhà dưới, trao cho mẹ nó, và nói: “Bà xem, con bà đang sống đấy!” (1V
17, 17-23).
Tóm lại, Tin Mừng hôm nay nhắc nhớ
chúng ta nhiều điều, từ tinh thần cởi mở, đón nhận hoạt động của Chúa Thánh Thần
qua thái độ cộng tác với các chứng nhân có thể không thuộc về nhóm mình, không
làm chứng, loan báo Tin Mừng theo cách thức của mình, miễn họ thành tâm xây dựng
công bình, khát khao chân lý và tìm kiếm con đường gặp gỡ Thiên Chúa, đến ý thức
thánh thiêng về thân xác, như sở hữu của Thiên Chúa, Đấng Chủ Tạo. Với ý thức
thân xác con người hoạt động nhờ Thiên Chúa, với Thiên Chúa và trong Thiên Chúa
để có thể chu toàn sứ mệnh chuyển tải sức sống thần linh cho người khác, người
Kitô hữu thâm tín rằng thân xác sẽ mất hết lẽ sống, ý nghiã có mặt và giá trị
khi từ chối thuộc về Thiên Chúa và phụng sự Ngài. Trong trường hợp này, không
chỉ tay, chân hay mắt là đáng bỏ đi, nhưng cả con người, toàn phần thân thể,
toàn thể thân xác sẽ không còn sự sống và tự thối rữa, hủy diệt, bởi Đền Thờ của
Thánh Thần là thân xác đã trở nên ô uế, bất xứng, không còn là nơi Thiên Chúa
ngự, như thánh tông đồ Phaolô đã viết: “Anh em chẳng biết rằng thân xác anh em
là đền thờ của Thánh Thần sao? Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần
chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế anh em đâu còn thuộc về mình nữa,
vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên
Chúa nơi thân xác anh em” (1Cr 6,19-20).
Jorathe Nắng Tím