Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 25 tháng 2, 2019

Mùa Chay - Mùa Xây Nhà Thờ


Nhà thờ là trung tâm sinh hoạt tôn giáo của xứ đạo, là trái tim của cộng đoàn, là bộ mặt của dân xứ, là biểu hiệu của tình hiệp nhất mọi người, là dấu ấn nhiệm kỳ cha sở, là niềm tự hào của ban Hành Giáo, là kiến trúc có một không hai mang nét văn hoá dân tộc, là kỳ quan ở châu Á, Việt Nam và còn là nhiều thứ khác kể ra không xiết tùy mục tiêu và cái nhìn của mỗi người… Nhưng điều quan trọng là nhà thờ không thể thiếu cho xứ đạo và nỗi lo hàng đầu cũng như nhức nhối hàng ngày của cha sở, cha phó, quý ban hành giáo là thấy nhà thờ xứ đạo chưa có, hay xuống cấp trầm trọng: dột nát, xiêu vẹo, gió thổi bên này, mưa tạt bên kia. Rất may, nếu đền thờ Giêrusalem đã phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, nhà thờ ở Việt Nam, nếu có sẵn tiền, chỉ cần ba tháng là lên mái, sáu tháng là khánh thành. Nhanh nhất thế giới!

Đền thờ Giêrusalem trang trọng, đồ sộ, xây dựng công phu như thế mà Đức Kitô hôm nay lại đòi phá đi (Ga 2,19). Người Do Thái coi đền thờ là nơi Thiên Chúa ngự và ở đâu, đi đâu cũng hướng về Giêrusalem, ở đó có đền thờ Thiên Chúa. Tuyên bố “phá đền thờ rồi tự mình sẽ xây lại trong ba ngày” chắc chắn Đức Giêsu đã làm phẫn nộ nhiều người và ngày càng lọt vào tầm ngắm của các lãnh đạo tôn giáo và họ quyết định phải diệt Ngài.



Tin Mừng chúa nhật thứ ba Mùa Chay kể chuyện Đức Kitô vào đền thờ. Ngài thấy “nào là những người buôn bán chiên bò, bồ câu, nào là những người đổi tiền bạc đang huyên náo, nhố nhăng biến nơi thờ phượng trang nghiêm thành nơi buôn bán (Ga 2,14). Và Ngài đã nổi nóng, lấy roi xua đuổi họ cùng chiên bò ra khỏi đền thờ, ném tiền bạc của họ xuống đất và lật đổ các bàn ghế của họ” (Ga 2,15). Lòng yêu mến nhà Chúa đã thôi thúc Đức Kitô hành động và làm sôi sục cơn giận trong Ngài: Ngài giận con người đã coi thường, xúc phạm, làm ô uế nhà Chúa. Ngài giận con người đã lấy nhà Chúa làm nơi trao đổi thương mại và để tiền bạc trở thành Thiên Chúa trong đền thờ. Ngài giận vì đền thờ đang bị biến chất thành nơi làm tiền và tiền bạc đang chiếm đoạt chỗ của Thiên Chúa. Đền thờ được xây dựng với mục đích thờ phượng và là nơi Thiên Chúa ngự, nhưng nay con người muốn chuyển đổi mục đích, vì thấy Thiên Chúa không quan trọng bằng tiền bạc, không giải quyết cho họ những vấn đề mới của kinh tế thị trường, không đem lại những gì họ mong đợi. Chuyển đổi mục đích của đền thờ, con người đã phế bỏ Thiên Chúa khỏi đền thờ của Ngài và xúc phạm nặng nề danh dự Thiên Chúa của Ngài. Đức Giêsu đã nổi nóng, cơn nóng của người con thấy cha mình bị xúc phạm trầm trọng, cơn nóng của tình yêu khi chứng kiến những phản bội trắng trợn, cơn giận của Thiên Chúa khi tận mắt chứng kiến con người ngạo mạn đến độ dám biến thánh đường thờ phượng thành thương trường trao đổi tiền nong, hàng hoá. Nhưng có lẽ chuyện làm Ngài đau lòng nhất là chủ trương đóng cửa nhà Chúa đối với người ngoài đạo.



Như ta đã biết, đền thờ Giêrusalem được xây để đón Đấng Thiên Chúa sai đến, Đấng sẽ quy tụ mọi dân nước thành một dân tộc thánh; vì thế khi được xây, đền thờ đã chuẩn bị sẵn khu dành cho những người ngoài Israel. Thứ tự kiến trúc rất rõ rệt: tận trong cùng là khu cực thánh để “hòm bia Giao Ước”, nơi đó chỉ có thầy thượng tế mới được vào tế lễ mỗi năm một lần; tiếp theo là khu thánh dành cho các tư tế với bàn thờ tế lễ, rồi đến khu dành cho đàn ông, sau đó là khu đàn bà và ngoài cùng là khu dành cho người ngoại giáo. Khu này rất rộng, ước chừng năm trăm mét chiều dài và một trăm năm mươi mét chiều rộng. Chính khu này đã bị biến thành chợ buôn bán chiên lừa, chim câu và các thứ hàng hoá khác dùng cho việc tế tự. Chiếm đất của người ngoại giáo trong nhà Thiên Chúa nói lên tâm địa hẹp hòi, ích kỷ, co cụm và chủ trương “Đạo pháo đài, Đạo ấp chiến lược” của những người có trách nhiệm trong đạo Do Thái. Điều này đi ngược với Hiến Pháp Nước Trời của Đấng Cứu Thế, Đấng đến với muôn dân và quy tụ toàn thể nhân loại vì vương quốc của Ngài sẽ vượt ra khỏi ranh giới Israel và bao trùm mọi thời, mọi nơi.

Nhà thờ của xứ đạo chúng ta rất có thể cũng rơi vào tình trạng chuyển đổi này mà ta không biết: tiền bạc và pháo đài.



Ta không biết vì buôn bán bây giờ tinh tế, nhanh chóng và dễ dàng hơn xưa nhiều. Người ta có thể trao đổi bằng ngân phiếu vừa nhẹ vừa gọn, bằng phong bì dúi tay vừa nhanh vừa chính xác, dịch vụ chuyển tiền qua mạng vừa an toàn vừa kín đáo… Những người Do Thái khi khởi công xây đền thờ, họ cũng đã chọn đúng mục đích và tâm hồn mọi người đều chung niềm vui, háo hức xây đền thánh Chúa ngự; nhưng mục đích thánh thiện ban đầu bị bẻ cong, trệch sang hướng thương mại, tâm hồn náo nức, sốt sắng việc nhà Chúa bị thoái hoá biến thành tâm hồn tiền bạc. Nhà thờ ta xây tưởng chỉ để cho Chúa, vì Chúa, ai ngờ ta đang xây tháp Babel vì mình, cho mình. Nhà thờ ta xây tưởng là công trình của bác ái, hiệp nhất, ai ngờ là dịch vụ làm giàu danh tiếng cá nhân, vinh dự đoàn thể, thoả mãn tự ái cục bộ, địa phương. Nhà thờ ta tưởng là nhà Thiên Chúa, nơi con cái quây quần vui vẻ, hạnh phúc, ai ngờ bị chiếm đoạt, sang tên làm nhà riêng của một nhóm, đất dụng võ của quyền lực trần tục, diễn đàn củng cố ảnh hưởng phe nhóm, toà án mắng nhiếc, lên án phe đối lập… Nhà thờ vô phúc, vô tình đã biến thành tháp Babel thiếu Thiên Chúa, vắng con người vì không có tình yêu thương.

Sách Sáng Thế kể câu chuyện tháp Babel: Sau trận đại hồng thủy, con cái của Noe sinh sôi nảy nở, nhưng tất cả vẫn nói chung một ngôn ngữ. “Xảy ra là họ tìm thấy một cánh đồng ở đất Sinêa và họ định cư ở đó. Họ nói với nhau: “Nào chúng ta hãy đúc gạch và nung lò!” Gạch họ lấy làm đá và lịch thanh làm hồ. Và nói: “Nào chúng ta xây thành quách để ở và xây tháp cao thấu trời. Chúng ta sẽ làm rạng danh chúng ta để không bị phân tán ra khắp mặt đất” (St 11,1-4).



Trình thuật viết rất rõ: tháp Babel không được xây bằng đá, nhưng bằng gạch nung, không được trát bằng ximăng, nhưng bằng chất dán gạch là hồ lịch thanh. Trong Kinh Thánh, ximăng là biểu tượng của bác ái và đá biểu tượng của những khác biệt. Ở đây, người ta không dùng ximăng bác ái làm hồ, không dùng đá đa dạng, khác nhau để xây tháp, nhưng dùng lịch thanh là chất dán có sẵn, không phải pha và gạch nung đồng bộ.

Tính đồng bộ của gạch nói lên tính độc tài, độc điệu, độc quyền. Người ta không chấp nhận những khác biệt; nghĩa là chỉ tìm những gì đồng bộ, nhất loạt, giống nhau và loại trừ những người “khác”: chỉ đồng hương, đồng khói, đồng đạo là người của ta, còn những người khác xứ, khác họ, khác làng, khác xóm, khác địa phận, khác tiếng nói, khác chủng tộc, khác ý kiến, khác quan điểm, nhất là khác Đạo, ngoài Đạo đều không thuộc về ta và không được tham gia, dự phần với ta; chỉ những ai mặc đồng phục mới được vào nhà, còn những người ăn mặc tự do phải đứng ngoài. Không chấp nhận những người không như ta, không giống ta, tháp Babel đã chỉ dành cho mình: người của mình, người giống mình, người theo mình; bằng chứng là những người chủ trương xây tháp đã khẳng định: “Chúng ta xây tháp để làm vinh danh chúng ta” (St 11,4). Vinh danh mình là mục tiêu của công trình xây tháp trong khi tháp phải tìm vinh danh Thiên Chúa. Vinh danh mình là kỳ công con người cố gắng, trong khi vinh danh Thiên Chúa mới thật sự là điều họ phải thao thức, thực hiện. Vì tìm mình, họ sẽ gặp mình khi Thiên Chúa tránh mặt và khi gặp mình, họ sẽ chẳng còn nhận ra mình, nhận ra nhau vì bỏ Thiên Chúa ra ngoài, họ đã không còn hiểu nhau dù trước đó họ nói cùng ngôn ngữ (St 11,7). Tháp Babel phải bỏ dở dang và họ tự phân tán mỗi người một phương.



Như thế, con người chỉ hiểu được mình, hiểu được nhau khi có Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu gắn bó họ. Như ximăng bác ái gắn chặt những viên đá, hòn đá, khối đá không cùng kích thước, trọng lượng, hình thể với nhau; Đức ái kết chặt những cục đá tâm hồn muôn hình muôn dạng làm nên một đền thờ kiên cố, thánh thiện. Tình yêu nối kết, hợp nhất mọi người của mọi chủng tộc, màu da, tiếng nói, trình độ, hoàn cảnh, chính kiến. Thiếu đức yêu thương như ximăng, tất cả mọi công trình sẽ sụp đổ hoặc bỏ dở dang như tháp Babel vì gạch nung đứng xa nhau, đối kháng nhau, không hiểu nhau.

Nhà thờ chúng ta xây, nếu không dùng ximăng bác ái làm hồ, không chấp nhận những viên đá khác biệt đứng cạnh nhau, ở với nhau trước sau cũng sẽ trở thành tháp Babel kiêu căng, ganh ghét. Thiếu bác ái, nhà thờ sẽ trở thành hang trộm cướp với tham ô, lũng đoạn, buôn thần bán thánh. Thiếu yêu thương, nhà thờ sẽ biến thành chốn khoe của, khoe danh, trưng bầy tước vị, trình diễn thời trang, biểu dương quyền lực. Thiếu đức ái, nhà thờ sẽ trở thành sân khấu với đủ thứ kịch bản vô duyên, lố lăng, diễn viên hợm hĩnh, ngạo mạn, coi thường người khác, phỉ báng đồng đạo. Thiếu bác ái, nhà thờ sẽ là nơi hoạnh hoẹ, chỉ trích, đe dọa, vu khống, khủng bố nhau. Thiếu yêu thương, nhà thờ sẽ là nơi chỉ còn thiên chúa tiền bạc, thiên chúa quyền lực, thiên chúa danh vọng, thiên chúa ác ôn, thiên chúa chảnh chọe.



Sở dĩ nhà thờ dễ biến thành hang trộm cướp, sân khấu nhố nhăng và toà án khủng bố mà không bị phát hiện, chống đối là vì nhà thờ được che bằng lớp sơn nhà Chúa, được ngụy trang bằng tượng Chúa to đùng, được che chống bằng uy quyền Chúa rất oai phong, lẫm liệt, được che đậy bằng vinh danh Chúa rất cao sang và được bảo vệ bằng nhan thánh Chúa rất huy hoàng, tráng lệ. Ai dám tự tiện phong toả, kiểm tra nhà thờ? Ai dám xâm phạm nơi thánh? Chính vì thế, đám trộm cướp, buôn lậu gian tham mới tìm cho được nhà thờ để núp bóng, làm ăn an toàn.

Nói như thế không có nghĩa người viết phủ nhận ý ngay lành, công sức và tình yêu của những người suốt đời thiết tha với nhà Chúa, hao mòn vì lo xây dựng nơi thờ phượng, vất vả ngược xuôi tìm kiếm phương tiện để trùng tu nhà thờ để phục vụ đời sống thiêng liêng của xứ đạo. Người viết chỉ nêu lên nguy cơ có thể xảy ra, nếu những tâm tình và công trình thánh thiện vừa kể không xây dựng trên nền tảng bác ái, điều kiện không thể thiếu để nhà thờ xứng đáng là nhà của Thiên Chúa tình yêu. Đức Ái rất quan trọng, nhưng cũng rất mong manh, mỏng dòn, cần được thận trọng gìn giữ, phát huy. Chỉ một chút lửa kiêu căng muốn tháp chuông xứ mình phải cao hơn tháp chuông xứ bên cạnh, chỉ một tia lửa khoe tài điều quân khiển tướng, chỉ một đốm lửa háo danh muốn ghi dấu ngàn năm “triều đại “ cha xứ, chỉ một tàn lửa tự mãn “ta muốn là được” đã đủ đốt cháy nhà thờ với bao công sức xây dựng, như Giêrusalem đã hoang tàn, sụp đổ đưới chân quân thù. Quân thù đe doạ hôm nay không phải Nabucodonosor đã tàn phá đền thờ ngày xưa, nhưng là tham vọng, háo danh, say mê quyền lực. Những tia lửa tham vọng, đốm lửa háo danh, tàn lửa quyền lực sẽ phá nát tình huynh đệ, tình cha con, tình đồng đạo, tình những người con cùng một Cha trên trời và biến nhà Chúa thành hang trộm cướp, ổ mánh mung, lừa đảo như Đức Kitô đã quát mắng những người buôn bán chiên bò đang làm ô uế đền thờ (Ga 2,16).



Thách thức “sẽ xây lại đền thờ trong ba ngày”, Đức Kitô muốn nói đền thờ sẽ là chính thân xác phục sinh của Ngài. Chính Ngài mới là đền thờ xứng đáng, nơi Thiên Chúa Cha ngự. Từ nay, đền thờ không còn là công trình làm bằng gạch đá, nhưng là dân Chúa thấm nhuần bác ái, yêu thuơng luôn đón nhận sự hiện diện của Đức Kitô mà sự sống lại của Ngài đã mạc khải sức mạnh cứu rỗi của ơn sủng. Giáo Hội là đền thờ Thiên Chúa khi sống mầu nhiệm “thân thể” Đức Kitô. Dân Chúa là nhà thờ khi tuyên xưng sự chết và sống lại của Đức Kitô. Nhà thờ giáo xứ, nhà thờ giáo họ là dân chúa sống động với sự hiện diện của tình yêu Đức Kitô và tình bác ái huynh đệ của mọi người, vì “nơi nào có tình yêu, ở đó có Thiên Chúa”. Nhà thờ hôm nay phải được tiếp tục xây bằng những viên đá sống động yêu thương và trét bằng ximăng bác ái, huynh đệ. Thiên Chúa khao khát ở với con người, ở trong nhà thờ của xứ đạo. Để được như vậy, Ngài tha thiết xin ta xây dựng mỗi ngày nhà thờ của Ngài ngay trong trái tim ta, bởi nhà thờ không Tình yêu là nhà thờ không có Chúa và nhà thờ đẹp nhất, nguy nga, tráng lệ nhất, nhà thờ có tháp chuông cao tới trời, nhà thờ có Chúa ngự, có anh em quây quần, xum họp là nhà thờ được xây bằng những hòn đá yêu thương, trét bằng ximăng bác ái sống động.