Tìm kiếm Blog này

Thứ Năm, 20 tháng 9, 2018

Chương IX : CHA MẸ HIỀN LÀNH ĐỂ ĐỨC CHO CON


    Có một điều không cha mẹ nào nói ra, nhưng tất cả đều ưu tư, lo lắng, đó là đạo đức của chính mình, nhất là tuổi già khi sồng sộc đến, và con cái ngày càng lớn khôn.
   Lý do của ưu tư, lo lắng, băn khoăn, kể cả hối tiếc về  đạo đức, chính là cái nhìn của con, thái độ của con, và  tương lai của con.
1.  Cái nhìn của con 
    Ngày xưa khi con còn bé bỏng, cha mẹ sống thế nào cũng được, nhưng con càng lớn, cái nhìn “đặt vấn đề,  nhận định vấn đề, phân tích vấn đề, phán đoán vấn đề” của con không cho phép cha mẹ sống tự do “như ý” nữa, nhưng phải theo một khuôn khổ đạo đức. Nhìn cha bê tha rượu chè, ngất ngưởng say xỉn sáng chiều ở quán  nhậu, con sẽ nhìn cha bằng đôi mắt trách móc rất buồn. Thấy mẹ bon chen, gian dối, con sẽ tủi thân, xấu hổ, coi thường. Cái nhìn của con cái là điều cha mẹ ngại  hơn tất cả. Người đan ông không sợ cái nhìn của vợ khi  ông phạm tội, nhưng run rẩy trước cái nhìn của con ông,  cũng như người mẹ có tội không kinh hãi gì cho bằng cái  nhìn chất vấn của con bà, bởi con cái là tấm gương, qua  đó cha mẹ thấy mình rõ nhất, nghiêm minh nhất, đáng  sợ nhất. Đó là tấm gương trung thực, chính xác, nhưng  cũng tinh vi, tường tận có sức làm cha mẹ ngã gục trước  ngây thơ, trong sáng của con.
2. Thái độ của con 
     Cha mẹ thiếu đạo đức thường né tránh con, vì thái  độ của con như gai nhọn làm nhức nhối lòng cha mẹ,  khi cha mẹ không đạo đức. Ai cấm con cái tỏ thái độ  vui, buồn, đồng tình, phản đối trước hành vi của cha mẹ. Nếu cha mẹ đạo hạnh, thái độ của con sẽ là yêu mến,  kính trọng; trái lại, cha mẹ vô trách nhiệm, lười biếng,  gian tham, lừa lọc, bạo hành, bất trung, bất nghia sẽ bắt  buộc con có thái độ không tin tưởng, dè dặt, kể cả khinh  thường và xa tránh. Thái độ của con cái nói lên yếu tính  “đạo đức” của ơn gọi làm cha mẹ, vì đã làm cha mẹ,  người ta không thể chối bỏ đạo đức, bởi một trong những  nghia vụ hàng đầu của cha mẹ là giáo dục, huấn luyện  con thành những người tử tế, đạo đức, đạo hạnh. Thử hỏi  không đạo đức, cha mẹ có chu toàn được bổn phận của  nhà giáo dục?
     Đàng khác, con cái cần nơi cha mẹ một tấm gương, một đuốc sáng, một ngọn hải đăng để sống và tiến bước mà không sợ lạc đường, mất hướng trên hành trình cuộc đời. Mất cha mẹ “đạo đức”, con cái bị thiệt thòi, và hụt hẫng trước vô vàn những cám dỗ, cạm bẫy nguy hiểm của tội ác, sa đọa trên đường đời.
  3. Tương lai của con 
    Tương lai của con là ẩn số lớn đối với cha mẹ. Tương  lai ấy không chỉ hệ tại ở khả năng học hành, tháo vát, khôn ngoan trong ứng xử của con, mà còn tùy thuộc  không ít vào đạo đức của cha mẹ. Có được cha mẹ đạo đức, con cái không chỉ an tâm, hạnh phúc, mà còn hãnh diện với mọi người, nhất là bạn  bè cùng trang lứa. Con sẽ vui mừng biết bao khi được  mọi người kính trọng, vì là con của cha mẹ có tiếng đạo  hạnh, tử tế. Con sẽ vinh dự biết bao khi được nghe người  khác ca tụng công đức của cha mẹ mình. Con sẽ phấn  khởi thế nào khi đi đến đâu cũng được nhiều người giúp đỡ, trân trọng, chỉ vì là con của cha mẹ đáng phục, đáng  yêu, đáng kính bởi mọi người. Và con sẽ dễ dàng thành công trong cuộc sống gấp nhiều lần người khác, vì xuất  thân từ gia đình tốt, cha mẹ đức độ, con cái hiếu thảo, anh chị em hiền hậu, thương yêu nhau. Đạo đức của cha mẹ kéo theo đạo đức của cả nhà, là đầu tàu cho cả dòng dõi con cháu đức độ. Vì thế, khi cha mẹ không đạo đức, cả con tau gia đình sẽ chìm, và nhiều  thế hệ con cháu sẽ chơi vơi, chao đảo. Đó là lý do mà người ta thường cho rằng: “đời cha ăn  mặn, đời con khát nước”. Thực ra thì ai ăn mặn, người ấy  khát nước, nhưng vì tương quan cha mẹ - con cái là một  tương quan rất đặc biệt vì khăng khít huyết thống, gắn bó dòng dõi, nên ảnh hưởng lớn và chặt trên nhau. Cha mẹ sinh ra con, nên máu huyết con là máu huyết cha mẹ;  cha mẹ tạo nên hình dạng con, nên trong con có tất cả  “chất liệu” của cha mẹ. Vì thế, không một liên đới nào  gần gũi, sâu sát, mật thiết hơn liên đới cha mẹ - con cái. Cũng vì ảnh hưởng nhiều và mạnh mẽ trên nhau, nên đời  con khó ra khỏi đời cha mẹ, và việc làm tốt xấu của cha mẹ luôn gây âm vang lớn, chấn động cao trên đời con.  Khi đề cập đến một thành viên của gia đình, người  ta không thể gạt bỏ ảnh hưởng của cha mẹ, vì bất cứ ai,  ở bất cứ nơi nào, khi thiết lập một quan hệ với một người  mới, người ta luôn tìm về nguồn cội của người này, và  nguồn cội phải tìm trước hết chính là cha mẹ. Nếu cha  mẹ hiền lành, con cái khó có thể hung dữ. Nếu cha mẹ  thuộc giai tầng “đá cá lăn dưa” thì lấy đâu con thuộc  hàng “trâm anh, thế phiệt”? Không hẳn: “Con vua thì  lại làm vua, con ông sãi chùa lại quét lá đa”, nhưng thực tế cũng không mấy xa “kinh nghiệm nhân gian” này, khi con cái của cha mẹ đạo hạnh luôn là những đứa con  thành nhân trong xã hội, thành công trong hôn nhân,  cũng như thành đạt trong đời sống nghề nghiệp.
    Thực ra, khi làm cha mẹ, không ai không băn khoăn về hạnh phúc của con mình, và băn khoăn ấy tăng gấp bội khi vấn đề đời sống cá nhân của cha mẹ được đặt ra. Cha mẹ đặt ra vấn đề đạo đức cho chính mình, vì đó là tiếng nói của lương tâm, đặc biệt lương tâm của người mang ơn gọi làm cha mẹ, người giáo dục. Lương tâm  hối thúc cha mẹ nhìn lại mình, kiểm tra lại đời mình, kiểm điểm nếp nghi, nếp nhà “quá khứ” của mình, vì  hạnh phúc của con, bởi cha mẹ thừa biết: Con cái sẽ tủi  hổ khi thấy cha mẹ thiếu đạo đức, khi nghe thiên hạ đồn  thổi tiếng xấu về cha mẹ mình, khi cảm nghiệm cha mẹ không xứng đáng với thiên chức “Đấng sinh thành”, khi  linh cảm một ngày mai không mấy tươi sáng, vì nếp nhà  đạo đức ngày càng xuống cấp, dột nát, suy sụp. Cha mẹ đặt lại vấn đề đạo đức cho chính mình, vì con cái không “buông thả” cha mẹ trong những thói quen  không đạo đức, bởi chính lương tâm của con cái réo gọi,  đòi hỏi. Nhiều cha mẹ mất hẳn thế đứng “rường cột” của gia đình, vì mặc cảm tội lỗi khi biết mình không xứng  đáng với chỗ đứng và bổn phận làm cha mẹ. Không thiếu  những cha mẹ ngậm đắng nuốt cay phải “bó tay đao ngũ” khỏi cương vị “cầm cân nẩy mực” của người lãnh đạo gia đình, vì không chịu nổi những cái nhìn “chất vấn” của con cái. Đây là thảm kịch tinh thần đau đớn nhất mà cha mẹ phải gánh chịu, nếu chẳng may rơi vào tình trạng  thiếu đạo đức trong đời sống. Nhiều người trốn gia đình, bỏ con cái đi biệt tăm không phải vì không thương con, cho bằng vì không chịu nổi đắng đót, cay nghiệt từ thái  độ “không còn kính trọng” của con cái. Cha mẹ tự đặt vấn đề đạo đức của mình, khi cảm  nghiệm một cách siêu nhiên ảnh hưởng của mình trên con cái, như khi cha mẹ ăn chơi, sa đọa thì con cái học hành xuống dốc, bầu khí gia đình lộn xộn, căng thẳng; trái lại, khi đạo đức, chuyên chăm cầu nguyện, bác ái, vị tha thì con cái thành công mọi mặt, và phúc lộc như đổ  xuống trên mọi người trong nhà. Cha mẹ tự đặt lại vấn đề đạo đức, vì đến lúc không  muốn cũng phải chấp nhận: trách nhiệm đầu tiên của đời cha mẹ là trở nên tấm gương đạo đức cho con. Không  đạo đức, cha mẹ sẽ như kẻ có tâm điạ xấu lén gieo cỏ  dại, cỏ gai, cỏ lùng và hạt độc trên thửa ruộng đời con, khác với sống đạo đức là gieo trong con những hạt giống tốt, những hạt giống sẽ nảy mầm hạnh phúc, thành công. Cha mẹ đặt vấn đề đạo đức của mình cũng là dấu  hiệu đến khúc quanh cuộc đời, khi tất cả đã có, đã trải  qua, nhưng có một cái bỗng dưng thấy rất cần, nhưng  chưa có, đó là gia sản đạo đức không thể thiếu cho mình  và cho con. Cho mình vì quỹ thời gian đời mình không còn nhiều; cho con vì tương lai của con đang mở ra như  một thách đố.  Sẽ đến một lúc cha mẹ không muốn tin cũng phải  tin sức mạnh vô song của đạo đức trong việc giáo dục  con cái. Chỉ sợ khi khám phá sức mạnh để tin, thì mọi sự đã quá muộn. Vì thế, ngay khi có thể, cha mẹ nên xem  lại đạo đức của mình, không những để ổn định đời sống tinh thần, bảo đảm bình an tâm hồn, mà còn giải quyết  những lấn cấn, khúc mắc trong tương quan giữa mình  và con cái, khi đạo đức là chìa khóa vạn năng cho tất cả  mọi nan đề. Ngôn ngữ bình dân rất thâm thúy khi tóm tắt đạo đức  ở “lòng nhân”. Lòng nhân là lòng người, khác với “lòng lang dạ thú”. Lòng nhân là trái tim người biết chạnh lòng thương người, là tâm hồn người biết mở rộng đón tiếp người, là bàn tay người sẵn sàng nối dài giúp đỡ người, là bàn chân người lặn lội tìm đến với người cần cứu giúp, là ánh mắt người bao dung, chia sẻ, là tiếng nói người an ủi, khuyến khích, yêu thương, là óc não người thao thức kiếm tìm hạnh phúc cho mọi người. Lòng nhân làm cho con người thật sự là người, người cao thượng, người đạo đức, người thánh thiện, người đáng kính, người lý tưởng,  người tuyệt vời. Lòng nhân đem lại hạnh phúc cho chính  mình và mọi người chung quanh đang cùng sống. Thế giới loài người không thể thiếu những con người có “lòng nhân”; nếu không, thế giới sẽ bùng nổ tức khắc  vì hận thù; sẽ đóng băng lập tức, vì thiếu lửa hy sinh; sẽ  đột tử thình lình vì không còn tình thương làm khí thở.  Lòng nhân làm cho đời người mang chất người, làm cho  ngày mai của người thành ngày mai hy vọng. Lòng nhân  biến quá khứ của người thành ký ức đáng nhớ, dễ yêu, cho phép người gọi tên nhau bằng tình người, và liên kết  mọi người thành một xã hội nhân loại hạnh phúc, an lạc.
    Tóm lại, đạo đức là có lòng nhân, và lòng nhân là thương người, quý người, giúp người. Người là đối tượng của tình yêu, đồng thời cũng là lề luật của tình yêu, nên lòng nhân trở thành điều kiện của đạo đức. Cha mẹ có lòng nhân sẽ dạy con thành người nhân nghĩa. Nhân nghĩa là thước đo người đạo đức, và là nấc thang cần thiết cho cuộc đời hạnh phúc, thành công. Tuy thế, để lòng nhân mãi bền vững, người đạo đức cần quy chiếu đời sống đạo đức của mình vào một lý tưởng siêu nhiên, hay một Đấng thiêng liêng nào đó. Niềm tin tôn giáo không thể thiếu trong đời sống đạo đức, vì đó là căn bản và là đích tới của mọi đạo đức nhân loại. Người viết đã làm việc trong nhiều nha dưỡng lão, bên các cụ ông, cụ bà rất cao tuổi ở Áo và Pháp thời còn đi học. Qua nhiều tiếp xúc, và chia sẻ thân tình, người viết biết rõ một điều: Nỗi buồn sâu lắng và không ngừng day dứt tâm hồn các cụ là đời sống đạo đức của quá khứ. Nhiều cụ đêm nào cũng khóc, vì tiếc nuối đã không sống đạo đức, để con cái hư hỏng. Có cụ thở dài trách mình đã  trác táng, sa đọa thời trai trẻ, để lại một gánh nặng tinh  thần trên đời con cái. Cũng có trường hợp tự tử vì không  chịu nổi những cắn rứt của lương tâm về cuộc sống quá  khứ không đạo đức, và đáng thương hơn là nhiều cụ đã hóa điên vì không đủ bao dung tha thứ cho quá khứ nhầy nhụa, hư đốn của mình. Sau nhiều năm thực tập bên các  người già, người viết nghiệm ra một điều: Đạo đức là ám ảnh khôn nguôi, đáng sợ nhất ở tuổi già, khi quá khứ như những thước phim cứ tuần tự trở về. Mỗi chợt  thoáng nhớ con là gọi về nỗi buồn đời không đạo đức;  mỗi vu vơ chợt tỉnh là nghe hồn nặng triu xót xa thời sa  đọa; mỗi choáng ngợp của thời gian là rùng mình sợ hãi  khi hành trang đạo đức còn lỏng lẻo, nhẹ tênh; mỗi trở mình khó ngủ là trăn trở, nghẹn ngào vì dĩ vãng nhiều  lầm lỗi. Và chính ở tuổi “gần đất xa trời”, người ta mới  nghiệm hết cái giá trị không thể thiếu của một đời đạo đức, có lòng nhân. Ước gì cha mẹ ý thức đạo đức là đòi hỏi không thể  thiếu cho hạnh phúc của con cái, và của chính bản thân, để mỗi ngày thêm một bước có thể rất ngắn, rất nhỏ, nhưng luôn quy hướng “lòng nhân”, đi tới lý tưởng một  đời làm cha mẹ đạo đức.


Quý độc giả vui lòng đọc tiếp chương 10 : http://tinmungduongpho.blogspot.com/search/label/CMYT-chuong10