Tìm kiếm Blog này

Thứ Năm, 6 tháng 2, 2020

LÊN THIÊN ĐÀNG, VỀ NƯỚC TRỜI, VÀ0 VƯƠNG QUỐC THIÊN CHÚA KHÓ HAY DỄ ?


Thời Đức Giêsu, những người đi theo Chúa đã hỏi Ngài : Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được hưởng sự sống đời đời ? (Mt 19,16).   
Sự sống đời đời, Vương Quốc của Thiên Chúa, Nước Trời hay Thiên Đàng, tất cả đều chỉ chung một thực tại : Thiên Chúa, nơi có Thiên Chúa ngự, nơi có các thiên thần phụng sự Thiên Chúa, nơi có sự sống và hạnh phúc đời đời dành cho những người đã sống cuộc đời ngay lành được Thiên Chúa yêu thương, chúc phúc (x. Mt 25,31-40).  
Câu hỏi cách đây hơn hai ngàn năm cũng là câu hỏi được viết thành nhạc, mà trong các buổi sinh hoạt, các em thiếu nhi thường hát : Bé muốn lên Thiên Đàng, nhưng bé biết làm sao ? Bé muốn lên Thiên Đàng, nhưng Bé lên thế nào ?.
Bởi chưa ai là người đã lên thiên đàng rồi trở lại sống tiếp trên trần gian, nên mọi người đều trăn trở với vấn nạn : Nước Trời ở đâu ? Lên Thiên Đàng cách nào ? Có gì trong Vương Quốc của Thiên Chúa ?
Bởi chưa người nào từ thế gian đi du lịch Thiên Đàng, nên trước nguy hiểm có thể mất mạng, giữa hiểm nguy sự sống bị treo lơ lửng, người này ngơ ngác hỏi người kia : Mình sẽ lên Thiên Đàng hay đi đâu ?
Bởi chưa bao giờ có tấm hình chụp, hay thước phim ghi lại cảnh thực của Nước Trời, nên giờ lâm tử thường làm bối rối người đang hấp hối.
Bởi không có tài liệu dưới bất cứ hình thức nào về Vương Quốc của Thiên Chúa, nên nói về Thiên Đàng, ai cũng ngần ngại, không dám khoác lác vẽ vời.
Và bởi ngoài Đức Giêsu là Thiên Chúa từ Nước Trời xuống thế làm người và ở giữa loài người vào một thời điểm, và địa điểm chính xác trong dòng lịch sử nhân loại, nên trừ một mình Ngài, không ai đã có thể nói về Thiên Đàng, trình bày về Vương Quốc của Thiên Chúa.
Qủa thực, chỉ có Đấng đã ở trên Trời xuống thế gian làm người mới biết rõ Thiên Đàng và nói với con người về Thiên Đàng, trả lời những câu hỏi của con người về sinh hoạt trên đó ; chỉ có Đấng biết rõ Nước Trời nay ở với con người mới nói đúng những gì thuộc về quê trời cho con người ; chỉ có Đấng làm chủ Thiên Đàng mới có quyền quyết định những điều kiện con người phải có để được nhận vào Thiên Đàng ; và chỉ có Đấng nắm giữ quyền xét xử trên trời dưới đất mới ban phần thưởng Vương Quốc Thiên Chúa cho người này, người kia.
Và Đấng ấy chính là Đức Giêsu Kitô, như Ngài đã khẳng định với ông Nicôđêmô : Nếu tôi nói với các ông về những chuyện dưới đất mà các ông còn không tin, thì giả như tôi nói vói các ông về những chuyện trên trời, làm sao các ông tin được ? Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống. Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời (Ga 3,12-15).
Vậy Thiên Chúa làm người và ở giữa loài người ấy đã nói gì với con người về Thiên Đàng và con đường nào con người phải đi để lên tới Thiên Đàng, để về Nước Trời hằng phúc ?  
1.   Thiên Đàng là địa chỉ con người phải đến :
Đức Giêsu cho chúng ta biết : đích tới của hành trình dương thế sẽ là Nước Trời, điểm hẹn mà tất cả mọi người, không trừ ai đều được Thiên Chúa mời gọi đạt đến, bước vào, như Gioan Tẩy Giả đã rao giảng (x. Mt 3,2), và cũng chính là sứ điệp Đức Giêsu muốn các môn đệ của Ngài lên đường loan báo cho muôn dân : Nước Trời đã đến gần (Mt 10,7).
Nước Trời, hay Thiên Đàng là giá trị phải được ưu tiên tìm kiếm : Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ  khác, Người sẽ thêm cho sau (Mt 6,33), bởi Nước Trời là quê hương đích thực, hạnh phúc trọn vẹn, và sự sống đời đời (x. Tv 144.13) mà con người mơ ước, vì ở đó có Thiên Chúa là Cha nhân từ ngự trị (x. Mt 6,9), Đấng biết rõ con cái ở trần gian cần gì (x.Mt 6,32), và ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin Người (x. Mt 7,11).  
Nước Trời, Vương Quốc Thiên Chúa hay Thiên Đàng không chỉ là ước mơ của con người, nhưng còn là Lời Hứa của Thiên Chúa :
Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xóa tên như đồ xấu xa. Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì phần thưởng dành cho anh em trên trời thật lớn lao (Lc 6,20.22).   
Nước Trời được Đức Giêsu diễn tả qua nhiều hình ảnh : Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là lọai hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng (Mc 4,31-32).
Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình. Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc (Mt 20,1-2). Rồi nhiều lần trong ngày, ở những thời điểm khác nhau, ông ra ngoài đường nhận thêm người mới vào làm. Cuối ngày khi phát lương, ông trả đồng đều ai cũng một quan tiền, dù là người mới chỉ làm một giờ, hay người làm cả ngày. Khi có người thắc mắc, khiếu nại, ông đơn sơ trả lời : Tôi đâu có xử bất công với bạn đâu. Tôi đã chẳng thoả thuận với bạn là một quan tiền đó sao ? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi không có quyền tùy ý định đoạt những gì là của tôi sao ? Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức ? (Mt 20, 13-15).
Nước Trời còn giống như Vua kia mở tiệc cưới cho con mình. Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc, nhưng họ không chịu đến… (Mt 22,1-3). Vì tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ được mời lại không xứng đáng, Nhà Vua cho đầy tớ ra khắp các ngã đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới… (x. Mt 22,9-10).
Và còn nhiều hình ảnh khác nữa Đức Giêsu đã dùng để nói về Nước Trời như mười trinh nữ cầm đèn ra đón chàng rể, với năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan (x. Mt 25,1-13) để diễn tả ngày giờ con người được gọi rời bỏ đời này về đời sau thưòng rất bất ngờ, không  ai được biết trước ; như chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài (Mt 13,47-48) ; như kho báu chôn giấu trong ruộng, có người kia gặp được thì chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy (Mt 13,44) ; hoặc như nắm men bà kia lấy vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy men (Mt 13,33).
Như thế, Nước Trời là Vương Quốc của Thiên Chúa luôn thân thiện rộng mở đón tiếp hết mọi người, bất luận giầu nghèo, sang hèn, giỏi dốt, xấu tốt, miễn sao đáp ứng những điều kiện được Thiên Chúa đưa ra. Vương Quốc ấy không khoanh vùng ưu tiên, cũng không phân biệt, kỳ thị bất cứ sắc dân, ngôn ngữ, văn hoá, trình độ, đẳng cấp, vị thế xã hội nào, nhưng tạo mọi điều kiện dễ dàng để mọi người được nhận vào. Và vì là Nước Thiên Chúa, quê hương hạnh phúc đời đời, mà mọi người mơ ước, nên Thiên Đàng là một giá trị vô giá, kho tàng không gì sánh bằng mà bằng mọi giá phải chiếm hữu cho kỳ được.
Nhưng hình ảnh nổi bật hơn tất cả, chính là lòng tốt của Thiên Chúa khi ban phần thưởng Thiên Đàng cho con người, như Đức Giêsu đã khẳng định trong dụ ngôn thợ làm vườn nho Nước Trời, mà ở trên người viết đã cố ý ghi lại hầu như toàn phần bản văn Tin Mừng.
2.   Điều Kiện để vào Nước Trời :
Trong Tin Mừng, Đức Giêsu đã công bố rất rõ ràng những điều kiện phải có để nhận phần thưởng Thiên Đàng, những đòi hỏi phải đáp ứng để được vào Nước Trời, cũng như những bổn phận phải chu toàn để được sống đời đời trong Vương Quốc của Thiên Chúa.
Tin Mừng Mátthêu khẳng định : Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thưở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn ; Ta khát, các ngươi đã cho uống ; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước ; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc ; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng ; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han (Mt 25,31-36). Và Ta bảo thật các ngươi : mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy (Mt 25,40).    
Đoạn Tin Mừng Cuộc Phán Xét chung cho chúng ta thấy điều kiện để có sự sống đời đời, chiếu khán để vào Nước Trời chỉ là yêu thương, phục vụ những người bé nhỏ, hèn mọn. Điều kiện này có nhiều điểm rất đặc biệt từ phiá Thiên Chúa :
a.   Thiên Chúa ban cho mọi người khả năng yêu thương để ai cũng bình đẳng như nhau trước ngưỡng cửa  Nước Trời :
Người ta có thể khác nhau, cách biệt nhau, hơn thua nhau ở những khả năng khác, nhưng khả năng yêu thương thì ai cũng dư thừa, và Thiên Chúa chỉ đòi con người yêu thương nhau, như điều kiện để vào Nước Trời, Vương Quốc của Ngài.
b.   Thiên Chúa chọn đối tượng yêu thương, phục vụ là  những người thấp kém, hèn mọn, xấu số, kém may mắn, vì họ hồn nhiên, đơn sơ, giản dị, dễ thương, dễ gần hơn khó thươn, khó gần : 
Yêu người lớn hơn mình, thương người quyền thế hơn mình, phục vụ người danh giá hơn mình có khi lại là việc khó làm, vì người làm lớn, lắm tiền, nhiều quyền thường không mấy dễ gần, dễ thương, dễ chiều, bởi nhu cầu của họ cao nên ta khó thỏa mãn, đòi hỏi của họ khó nên ta đáp ứng rất vất vả, trong khi người bé nhỏ nhất, nghèo khó nhất, dốt nát nhất, bất hạnh nhất, đáng thương, tội nghiệp nhất bên cạnh chúng ta thường đơn sơ, giản dị để chúng ta yêu thương, và hồn nhiên để chúng ta chia sẻ, phục vụ. Chưa kể với người  giầu sang, quyền thế, vì họ không cần ai, cần gì, nên khi ta lân la đến gần, ta có thể bị họ nhìn như kẻ ăn mày đi tìm của bố thí. Trái lại, khi đến với người  bé nhỏ nhất trong anh em, chúng ta gặp được con người thật, với qủa tim thật của cuộc đời thật.
c.    Thiên Chúa tự đồng hoá mình với những anh em bé nhỏ, hèn mọn nhất, để hành vi bác ái của chúng ta mang giá trị siêu nhiên, tuyệt đối :
Bởi vi yêu thương con người vô cùng, nên Thiên Chúa đã cho con người là thụ tạo tương đối được qưyền yêu Thiên Chúa là Đấng Chủ Tạo tuyệt đối, để hành vi yêu thương vốn tương đối của con người dành cho con người đuợc trở thành hành vi tuyệt đối hướng thẳng đến Thiên Chúa.
Hơn thế nữa, Thiên Chúa còn tự đồng hoá mình với những người anh em bé nhỏ nhất, để những gì bé nhỏ được trở nên vĩ đại, tầm thường trở nên phi thường, thiếu sót trở nên hoàn hảo, yếu đuối trở nên vững mạnh, nhất là con người tương đối  được tháp nhập vào Thiên Chúa tuyệt đối, nhờ tình yêu có giới hạn của  con người được Thiên Chúa thánh hoá và làm cho trở nên vô hạn, vô biên, vô cùng trong Thiên Chúa, như giọt nước nhỏ bé con người được tan biến trong đại dương bao la, vô tận Thiên Chúa.
Điều kiện rất đơn sơ : yêu thương và phục vụ những người bé nhỏ, hèn mọn nhất trong anh em còn được Đức Giêsu nhấn mạnh trong dụ ngôn ông nhà giầu và anh Ladarô nghèo khó của Tin Mừng Luca : ông nhà giầu đã không được vào Nước Trời chỉ vì đã không thương xót người nghèo khó tên Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng nhà ông, và thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no (Lc 16,20-21).
Như thế, chúng ta có thể nói mà không sợ sai : điều kiện để vào Nước Trời không qúa khó, vì khả năng yêu thương thì ai cũng có, đối tượng yêu thương được Thiên Chúa đề nghị không khó tìm, đúng hơn là nhan nhản khắp nơi, kề cận, có mặt quanh ta, dễ thấy dễ gặp ; nhất là có sự bảo đảm của Thiên Chúa để hành vi yêu thương, phục vụ tha nhân mang giá trị cứu rỗi, khi Thiên Chúa tự đồng hoá với những người bé nhỏ, hèn mọn, yếu đuối, kém may mắn nhất. 
3.   Những Lực Cản làm đường lên Thiên Đàng trở nên khó :
Con đường về Nước Trời, lên Thiên Đàng sẽ không khó, không là cửa hẹp, không vất vả, gian truân, nếu không vì những lực cản làm lệch hướng, sai chiều, có khi đắp mô, cắt đường, cấm vận sau đây :
a.   Lực cản người nghèo khó, hèn mọn, đau ốm, thất thế, cô thân :
Đây là lực cản khó thoát, khi mọi người đều mong thân quen kẻ sang giầu, ao ước làm bạn với người quyền thế để có cơ hội theo họ mà tiến thân, nhờ họ mà được cất nhắc, nép bóng họ để được che chở, bảo vệ, đi bên họ để được nể nang, kính trọng. Chẳng thế mà khi công thành danh toại, chức tước, quyền bính đầy mình thì không còn giờ tiếp khách, không thiếu kẻ tình nguyện điếu đóm, cơm bưng nước rót, và không bao giờ phải lủi thủi một mình, vì ở đâu và lúc nào thiên hạ cũng say mê tìm kiếm, cũng điên cuồng tung hô, cũng bạo miệng thề thốt sống chết trung thành…
Sở dĩ chúng ta có khuynh hướng chạy theo người có chức quyền, tiền bạc, ảnh hưởng vì họ mang lại nhiều cơ hội cho chúng ta thành công, và đi với họ, chúng ta có nhiều cơ may, lợi thế hơn giao lưu với người khố rách áo ôm, nghèo rớt mùng tơi, cơm không có ăn, nói gì đến chuyện làm lợi cho người khác. Chưa kể, đi với người nghèo, ta còn phải tốn kém ; đi với người bệnh Corona, ta dễ bị lây nhiễm ; đi thăm tù nhân, ta có thể bị tình nghi, theo dõi ; đi với người thất thế, sa cơ, ta có thể bị sụp đổ theo họ ; đi với người bị cô lập, tẩy chay, ta có thể bị chụp mũ te tua ; đi với người đang bị tổ chức, cơ chế, bề trên kỷ luật, trừng phạt, có thể ta cũng sẽ bị ăn đòn, lãnh đủ như họ.
Thế nên mấy ai dám xả thân vì người nghèo, dám quên mình vì người cô thân thất thế, dám dấn thân vì người bị vu khống, đàn áp bất công, bởi nguy hiểm luôn rình rập, tai tiếng luôn chực chờ những con người dám hy sinh vì người anh em bé nhỏ nhất.
b.  Lực cản Cái Tôi :
Nói gì thì nói, Cái Tôi với tôi vẫn luôn là cái đẹp nhất, qúy nhất, giỏi nhất, đạo đức nhất, ngon lành nhất, tuyệt vời nhất, nên khi Cái Tôi bị sứt sát, thiệt thòi, thua lỗ, tổn thương thì tim tôi xót xa, hồn tôi bối rối, chân tay tôi bủn rủn, toàn thân tôi rã rời, vì tôi thương Cái Tôi hơn tất cả những cái khác.
Vì thế, quá lo lắng cho mình, ta sẽ không lo được cho ai ; qúa chăm chút mình, ta sẽ chẳng quan tâm đến người nào ; qúa tin ở mình, ta sẽ nghi ngờ mọi người, và qúa yêu mình, không ai sẽ còn là đối tượng để ta yêu thương.
Do đó, khi đến với người khác, ta luôn tính toán mối lợi sẽ thu về cho Cái Tôi ; khi làm việc gì cho tha nhân, ta luôn hoạch tính thế nào để không thiệt thòi cho mình, nên bất cứ ai không có lợi, hay không đem lại cơ hội cho ta tiến thân, tiến chức, tiến nhanh tiến mạnh, ta đều xa tránh họ. Và đó chính là lý do Cái Tôi luôn dị ứng với người nghèo, người yếu, người hết thời, người thất thế, người bị đời bỏ rơi. Đó cũng là lý do Đức Giêsu đã nói với các tông đồ : Thầy bảo thật anh em, người giầu có khó vào Nước Trời. Thầy còn nói cho anh em biết : con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào Nước Thiên Chúa (Mt 19,23-24), bởi hầu hết người giầu cho đi để có lợi  hơn gấp nhiều lần, bỏ ra một đồng để thu về mười đồng, do lòng tham và chủ nghiã Cái Tôi chế ngự, nên họ khó có thể chia sẻ tấm lòng bác ái đích thực với những người chẳng có gì để họ có thể đầu tư, trục lợi.   
c.    Lực cản thiếu niềm tin :
Không ai có thể chối cãi một sự thật, đó là không mấy hứng thú khi hết ngày này qua tháng nọ phải phục vụ một số đối tượng không quyến rũ, hấp dẫn như trẻ mồ côi, người già neo đơn, người bệnh bị cách ly, người tàn tật, người tỵ nan trong các cô nhi viện, nhà thương, trung tâm xã hội không luôn sạch sẽ, khang trang, ngăn nắp, trật tự. Những đối tượng này, phần vì nghèo, phần vì không được đào tạo, chăm sóc đầy đủ, nên hay ăn nói linh tinh, ăn ở bừa bãi, ăn mặc xốc xếch, luộm thuộm, và hay gây nhiều phức tạp, phiền phức. Vì thế, ở gần họ, không luôn thích thú, và phục vụ họ, không luôn dễ dàng.
Trong Tin Mừng Mátthêu, cả người lành và người dữ trước toà Thiên Chúa phán xét đã cùng một thái độ sửng sốt, ngạc nhiên, và cùng thưa lại với Thiên Chúa : Lậy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống ; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước ; hoặc trần truồng mà cho mặc ? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu ? (Mt 25,37-39 ; x. Mt 25,44).
Tất cả người lành và người dữ, người được chúc phúc và không được chúc phúc đều đã không nghĩ rằng : Thiên Chúa lại ở ngay trong những người nghèo đói, rách rưới, đau ốm, tù đầy, tỵ nan ; không ai trong những người được lên Thiên Đàng và phải xuống hoả ngục đã có thể đoán trước câu trả lời vượt sức tưởng tượng của con người : Ta bảo thật các ngươi : mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy (Mt 25,40), và mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy (Mt 25,45).
Đức tin hệ tại ở nhận ra Đấng Vô Hình qua những thực tại hữu hình ; nhận ra Đấng Toàn Năng, phi thường ở những hữu hạn, tầm thường ; nhận ra Sức Mạnh siêu nhiên trong yếu đuối tự nhiên ; nhận ra Thiên Chúa trong những con người không ra gì, không giá trị, thành tích gì, không quyền thế, vinh dự gì, những người bé nhỏ nhất, nhưng lại được Thiên Chúa yêu thương ở với, được Thiên Chúa cưng chiều và đồng hành, được Thiên Chúa tuyển chọn để với họ Thiên Chúa tự đồng hoá.  
Qủa thực, với con mắt nhân loại, do thúc đẩy của xã hội vật chất, thực dụng, vô thần, với khuynh hướng làm nổi bật cái Tôi vĩ đại, áp lực bởi cám dỗ của ganh ghét, đố kỵ, và não trạng, thói xấu trên đội dưới đạp, đôi mắt đức tin của chúng ta dễ bị lu mờ, có khi đui mù toàn phần, để không còn thấy và tin có Thiên Chúa hiện diện qua dáng gầy liêu xiêu của người mẹ già cô qủa ; có Thiên Chúa ở bên đám trẻ mắt sâu hoẵm, chân tay khẳng khiu, gầy guộc, nhem nhuốc kiếm ăn ở bãi rác thành phố ; có Thiên Chúa trong cô đơn, sầu muộn của người con gái lầm lỡ, bị gia đình ruồng bỏ, trừng phạt ; có Thiên Chúa trong trại giam bi thảm ; có Thiên Chúa trong những con người mang đầy mặc cảm, vì bị chính anh em mình hiểu lầm, nguyền rủa, tẩy chay, khai trừ.    
Vâng, đường về Nước Trời dễ hay khó, đường lên Thiên Đàng khả thi hay không thể thực hiện hoàn toàn tùy thuộc vào tinh thần và thái độ đón nhận của mỗi người. Tinh thần và thái độ ấy đã được Đức Giêsu khẳng định : Thời kỳ đã mãn, và Vương Quốc của Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng (Mc 1,15).
Sám hối tức trở về, và tin vào Tin Mừng là tin vào Đức Giêsu. Trở về từ những kiêu căng, gian tham, ích kỷ, ganh ghét, hận thù, và tin vào Đức Giêsu là Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ duy nhất. Ngài đến để mở đường lên Thiên Đàng cho tất cả những ai thiện tâm sẵn sàng đi theo Ngài ; Ngài có mặt trong thế giới để Nước Trời hiện diện giữa lòng cuộc sống ; Ngài ở giữa mọi người để đồng hành với mọi người thành tâm thiện chí trên đường về Nước Trời ; Ngài giang tay trên Thánh Giá để đón vào Vương Quốc của Ngài tất cả những ai có lòng nhân ái, biết xót thương người đáng thương hơn mình.
Và lời Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ bên biển hồ Galilê năm xưa : Các anh hãy theo tôi ! (Mc 1,17) vẫn mãi vang vọng trên đường tìm kiếm Thiên Đàng, Nước Trời, Vương Quốc Thiên Chúa của mỗi người chúng ta.
Jorathe Nắng Tím

0 nhận xét: