Lệ Hằng, tác giả của nhiều tiểu thuyết trong đó có tác
phẩm "Tóc mây", một thời làm sôi động giới trẻ Sàigòn qua mối
tình nóng bỏng của cha Duy và cô sinh viên.
Lệ Hằng là chị họ, con ông bác ruột, anh lớn của mẹ
tôi. Tôi còn nhớ khi viết "Tóc mây", chị có cho tôi đọc một
vài đoạn của bản thảo. Chị hỏi tôi có hay không? Tôi chỉ cười và tỏ ý e ngại
cho ngòi bút táo bạo của chị. Đúng như tôi dự đoán, bác tôi đã đăng báo từ chị,
không nhận chị là con từ dạo ấy.
Chuyện chị viết là chuyện tình của một linh mục với
một thiếu nữ, câu chuyện mà bác tôi cực lực lên án. Với các ngài, chuyện đó
không thể xảy ra và ngay cả có xảy ra cũng không được đề cập đến, phải ém nhẹm,
che đậy, chôn dấu đi, nếu còn muốn là người "có đạo". Và chị
tôi đã bị nhiều người trong họ nguyền rủa, trách móc là "phường vô đạo,
bôi bác các Đấng, làm ô nhục Hội Thánh".
Tôi không có kinh nghiệm về những mối tình "mây
bay, tóc rối " này, nhưng biết một điều là rất nhiều trái tim đã hơn
một lần chọn giới nhà tu làm đối tượng yêu.
Thường thì nhà tu mang diện mạo thâm trầm, đạo mạo,
đáng kính; nhưng không chỉ đáng kính, đạo mạo, thăng trầm, nhà tu còn có cả một
chuỗi dài những đức tính như dễ thương, hiền hậu, tế nhị, nhạy cảm, nhẫn nại,
bác ái, vui vẻ, lịch sự, đôn hậu, tận tâm, ân cần… và cả “galant” nữa. Không
những họ có đủ đức tính để thành công, họ còn có mọi điều kiện để sống tình,
sống một cuộc đời rất tình.
Nhìn vào vị tu sĩ, ta thấy nơi họ toát ra một cái gì
rất lôi cuốn, một thứ lôi cuốn lạ lùng, huyền nhiệm như muốn cất bổng ta theo
họ ra khỏi cõi ô trọc trần gian. Nơi họ, ta thấy bình an, một thứ bình an không
son phấn, nhưng cuốn hút cõi lòng rối bời, xao xuyến của ta. Họ tỏa ra một thứ
hương trời, một nét đẹp không diêm dúa phô trương. Họ mang một thân xác trinh
nguyên, ấm áp cả cõi trời cao cả. Ở họ, ta có cảm tưởng sẽ gặp được tất cả:
Thượng Đế và tất cả những gì đẹp nhất, tinh túy nhất của loài người.
Tìm đến để rồi bị lôi cuốn bởi vẻ đẹp thần thánh nơi
họ, ta sẽ không ngần ngại đi theo tiến trình bình thường của tình yêu là chiếm
đoạt. Yêu linh mục, có một dạo đã thành cái "mode" thời
thượng. Người ta cảm thấy hãnh diện được làm người tình của ông cha, ông thầy.
Nhiều cô không yêu ai mà chỉ tìm yêu cha, mong lấy thầy. Tuy biết xã hội không
mấy thiện cảm với những người "cám dỗ nhà tu" nhưng xã hội là chuyện của xã hội, tôi có chuyện của tôi.
Rồi đâu cũng sẽ vào đó khi tôi đã lấy được thầy, nyêu được cha.
Nhìn vào những cuộc tình kiểu "tóc mây"
của Lệ Hằng, ta thấy tình yêu không đến bằng những bước chân âm thầm từ xác
thịt, nhưng lượn là trên cao từ những tầng mây xanh thẳm, mơ hồ, huyền diệu,
quyện nhẹ theo gió những lọn tóc mây thơm mùi nắng gió. Tình yêu ấy không xâm
lấn, chiếm cứ sỗ sàng đối tượng từ những phần xác thịt thơm tho gợi cảm; cũng
không điên cuồng, chụp giật; nhưng ngây ngất, ngọt ngào trong lời kinh mầu
nhiệm, đam mê, cuồng nhiệt theo tiếng hát giờ kinh đêm. Tình yêu ấy có lúc
thoang thoảng như hương trầm, có khi tha thiết như chuông ngân; nhưng dù thoang
thoảng hay tha thiết, tình ấy luôn giữ bản sắc thánh thiện.
Bởi mang bản sắc thánh thiện, có hương nến nghi ngút
bao che, có mây ngàn diệu vợi gìn giữ nên không mấy khi tình ấy thực sự lộ
diện. Nó cứ e ấp, nửa vời để không mất mầu thánh thiện. Nó cứ lẩn quẩn, loanh
quanh để tránh tiếng sỗ sàng, xác thịt. Bởi là tình thánh thiện nên phải mang
bộ diện thánh và hướng đi thiện. Bộ diện thánh thì không khó nhưng hướng đi
thiện quả không dễ chút nào.
Hướng đi thiện ban đầu được đảm bảo bởi bộ diện thánh;
nhưng với thời gian, đường đi khó đến sẽ làm lữ khách ngập ngừng, bối rối kéo
theo những lỡ nhịp, lỡ trớn của bộ diện. Bởi thời gian không tha ai, không che
dấu sự gì nên bộ diện thánh cũng sẽ tơi tả, rớt xuống một ngày khi mà hướng đi
không còn thiện.
Hướng đi không còn thiện ở đây phải được hiểu là tình
trạng bất nhất của chủ thể. Chủ thể không còn sống thực với chính mình, không
còn liên quan thực giữa lý tưởng và đời sống. Cơn bão tình đã làm đảo lộn trật
tự đang có, một trật tự cần thiết cho đời sống và lẽ sống đã được chủ thể tự do
chọn lựa. Bởi bộ diện và hướng đi không thể không phù hợp, đời sống và lẽ sống
không thể tách rời; nên khi trật tự bị lấy đi, đời sống và lẽ sống bị ngăn rẽ,
hướng đi và bộ diện không còn hợp nhất thì lập tức có những khoảng không hụt hẫng,
bất ổn.
Một trong những bất ổn của cuộc tình này là tính cách ỡm
ờ, nửa hư nửa thực của nó. Người trong cuộc nhiều khi cũng không biết mình đang
ở đâu, phải làm gì; bởi khó xác định được tình trạng thực của tâm hồn; bởi
không rõ và không dám rõ mình đã yêu hay chưa yêu, có thể yêu hay không đuợc
phép yêu, dám liều lĩnh yêu hay còn e ngại đủ điều.
Bất ổn còn do chỗ đứng trong xã hội, do dư luận và
những đòi hỏi của xã hội. Một linh mục yêu một cô sinh viên hay một cô tín đồ “phải
lòng” một linh mục là điều không thể chấp nhận với nhiều người. Người ta không
chấp nhận hay không dễ chấp nhận vì tính cách thánh thiện muôn thuở của "con
người linh mục" và
thành kiến khó phai trên đời người con gái lỡ yêu nhà tu. Xã hội đánh giá, định
lượng chuyện tình "tóc mây" bởi xã hội coi chuyện tình này
liên quan đến họ, dính dáng đến họ với một lý luận đơn giản: ông cha, ông thầy
là nhà tu là người của mọi người, ông ấy thuộc về tất cả chúng tôi.
Trở thành người của mọi người từ dạo làm cha, làm thầy
nên nhà tu không còn tự do làm chuyện riêng. Chuyện gì của họ cũng là chuyện
chung, chuyện của mọi người, vì mọi người. Ngay cả yêu thương, cũng phải yêu
chung, yêu mọi người; nên khi yêu ai hay bị một ai chiếm đoạt làm của riêng,
nhà tu lập tức bị tập thể lên án. Họ lên án vì khế ước tinh thần bị đơn phương
hủy bỏ. Họ khó chịu bực bội vì có cảm tưởng bị mất mát, bị tước đoạt, bị trắng
trợn phản bội.
Đây là then chốt của nhiều căng thẳng giữa nhà tu và
giáo dân và nhà tu phải nhận ra họ chỉ được an bình trong đời sống tình cảm khi
chịu chia sẻ và chan hòa tình yêu cho mọi người. Chính con đường "chan
hòa" ấy cho họ khả năng và chỗ đứng làm cha, làm thầy mọi người. Ngược
lại, nếu có những khúc quẹo "riêng tư" của tình cảm, họ sẽ bị
mất đi niềm tin, lòng kính trọng.
Như thế, ta thấy khó có thể lèo lái dư luận đi theo
chiều "tóc mây", khó có thể yêu một nhà tu mà không bị lên án.
Và nếu tình yêu ấy luôn khó khăn, trăn trở, nhiều chướng ngại, thử hỏi làm sao
an bình, hạnh phúc được bảo đảm? Chỉ có một chọn lựa cuối cùng là từ bỏ tất cả,
quên đi tất cả, làm lại tất cả. Chọn lựa này thường không dễ bởi tự nó đã là
một khó khăn hầu như không lối thoát. Nó cũng thường kéo theo nhiều ray rứt,
dằn vặt làm mưng mủ nhiều vết thương lòng khác.
Chuyện "Tóc mây" của chị Lệ Hằng viết
đã nhiều chục năm nay, tôi không nhớ nhiều những tình tiết trừ một điều còn đậm
nét trong ký ức, đó là đoạn kết với "ơn trở về" của cha Duy,
nhân vật chính trong truyện, một truyện tình lãng mạn và đẹp như suối tóc của
ngàn mây.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét